Gia đình tôi, như biết bao gia đình Việt Nam khác, đã chịu những mất mát không thể nào đo đếm bằng bất kỳ thước đo nào. Ba tôi - một người nông dân Quảng Nam kiên trung - đã đi theo cách mạng ngay từ những năm đầu 1945. Từ thời điểm ấy, ông đã lựa chọn con đường theo cách mạng, theo Bác Hồ, dấn thân vào cuộc kháng chiến với trái tim sục sôi yêu nước. Hai người anh trai của tôi - con bà mẹ đầu - cũng lần lượt theo cha đi kháng chiến từ đầu thập niên 1960. Một anh ngã xuống ở chiến trường miền Nam năm 1962 đến nay chưa tìm thấy phần mộ, khi tôi còn nhỏ lắm, mới kịp nhớ được vài đường nét trên gương mặt anh. Người anh còn lại hy sinh năm 1968 khi đang đi làm công tác địch vận. Em gái tôi cũng theo bước cha anh, khi còn rất nhỏ đã làm Liên đội phó thiếu niên tham gia đấu tranh chống quân Mỹ đốt nhà, mà đã bị lính Mỹ bắn chết cùng với bà ngoại tôi và bà con hàng xóm của tôi ngày 27/4/1966 ngay tại làng Thanh Châu, huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng Nam cũ. Nay tại đây đã có tượng đài ghi tên tưởng nhớ những người đã hy sinh trong hai cuộc kháng chiến .
Chỉ trong vòng chưa đầy 10 năm, ba người thân yêu của gia đình tôi đã ngã xuống vì đất nước. Bà mẹ đầu của tôi được Nhà nước truy tặng danh hiệu Mẹ Việt Nam Anh hùng. Đó là một danh hiệu cao quý, nhưng cũng là nỗi đau không lời của những Mẹ Việt Nam Anh hùng nhiều lần tiễn con đi.
Đài tưởng niệm cán bộ và nhân dân thôn Thanh Châu, xã Thu Bồn hiện nay đã hy sinh trong chiến tranh.
Đại gia đình bên nội tôi có đến sáu Liệt sĩ và hai Mẹ Việt Nam Anh hùng. Nhà ngoại tôi cũng ba Liệt sĩ và mẹ Việt Nam Anh hùng. Con số ấy, nếu đem kể ra, có thể làm người ngoài giật mình. Nhưng trong những năm tháng chiến tranh ấy, sự hy sinh không phải là điều cá biệt. Về làng quê tôi sau ngày đất nước thống nhất năm 1975, mới thấy một thực tế đau lòng: hầu hết các hộ dân ở đây là gia đình chính sách; không ai là không có người thân hy sinh, bị thương, đi tập kết, đi kháng chiến, đi bộ đội, dân công, thanh niên xung phong...
Khi chiến tranh kết thúc, tôi, ba tôi và mẹ tôi - ba người còn lại - trở về quê hương từ ba phương trời. Đó là cuộc gặp gỡ mà lẽ ra phải tràn ngập niềm vui sum họp, nhưng lại chất chứa bao nỗi nghẹn ngào. Căn nhà xưa không còn, những bữa cơm đông đúc người thân cũng không còn. Mọi người lặng lẽ nhìn nhau với nỗi nhớ khôn nguôi.
Đại đức Thích Đồng Nhãn chụp ảnh cùng đoàn chúng tôi đến từ Đà Nẵng.
Tôi nhớ mãi hình ảnh những ngày cuối đời của ba mẹ. Gần như hai phần ba đời người họ sống xa cách. Giai đoạn cuối cùng của cuộc đời, họ sống với bệnh viện, thuốc thang và thay phiên nhau chăm sóc, ông chăm bà, rồi bà chăm ông, lặng lẽ và nhẫn nại như cái cách họ đã sống suốt mấy chục năm trời kháng chiến. Con cháu chúng tôi dù thương yêu vô cùng, nhưng mỗi người lại phải mưu sinh khắp nơi, xa cách dặm dài, chỉ có dịp tết và hè là về thắp nén nhang trên bàn thờ tổ tiên, Liệt sĩ.
Với gia đình tôi, ngày 27/7 không chỉ là ngày của đất nước mà còn là ngày giỗ chung - ngày tưởng niệm cho các Liệt sĩ thân yêu. Bởi chúng tôi không có được ngày hy sinh chính xác của từng người. Giấy báo tử chỉ có vài dòng ngắn gọn: “Hy sinh tại mặt trận miền Nam”, “Hy sinh trong khi làm nhiệm vụ”... Thế là từ đó, 27/7 là ngày mà gia đình tôi, cũng như nhiều gia đình khác sửa sang bàn thờ, dâng hương hoa, nấu mâm cơm nhỏ - gọi hồn các anh và em về sum họp.
Mới một tháng trước đây, tôi cùng với gia đình vợ chồng người anh, người bạn Ngô Thanh Hải - Lâm Thanh Phong cùng những người bạn thân thiết ghé thăm chùa Hà Tân ở Đại Lộc - Trụ trì ngôi chùa là Đại đức Thích Đồng Nhãn. Đây là ngôi chùa đặc biệt - không chỉ vì kiến trúc cổ kính, không gian thanh tịnh - mà vì nơi đây có đền thờ hơn 1000 liệt sĩ thuộc các đơn vị Sư đoàn 304, 324 và Trung đoàn 219 thuộc Quân đoàn 2 đã hy sinh trong trận đánh đồn Thượng Đức năm 1974 - một trong những trận đánh ác liệt nhất trên đất Quảng. Tôi đã đứng lặng rất lâu trước hương linh các Liệt sĩ. Những cái tên, những năm sinh, quê quán được khắc lên bia đá như những vết dao cứa vào tim người sống. Nhiều người không còn mảnh thân xác - họ tan vào núi rừng, nằm lại dưới lòng sông hay đỉnh đồi. Tôi thắp nén hương mà không cầm được nước mắt. Họ là đồng đội, đồng chí cùng trang lứa với chúng tôi và chắc chắn biết bao những người mẹ từ nhiều miền của đất nước chưa một lần biết con mình nằm ở đâu. Với tôi, mỗi chuyến đi như thế là một lần tôi đối diện với quá khứ, là một lần gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh trong tâm hồn.
Tôi nhớ hình ảnh hai người đồng đội thân thiết của chúng tôi - vợ chồng chị Ngô Thị Huệ, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, và anh Trần Viết Trí - cả hai đều đã ngoài tuổi 80 - nhưng năm nào cũng tổ chức lễ cúng các đồng đội Liệt sĩ vào ngày 27/7, bất kể mưa nắng, bệnh tật. Những nén nhang ấy - những chén nước, bát cơm, hoa trái - là biểu hiện của lòng trung thành, của nghĩa tình sâu nặng, của một thứ đạo lý Việt không bao giờ phai.
Là người từng sống qua chiến tranh, từng mất mát người thân, tôi thấm thía hơn ai hết ý nghĩa của câu nói Bác Hồ để lại: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Độc lập - tự do mà dân tộc ta giành được không đến từ may mắn hay ban ơn, mà được đổi bằng xương máu của hàng triệu người Việt Nam. Đó là điều không được phép quên. Phải để thế hệ sau hiểu rằng: những gì đang có hôm nay không tự nhiên mà đến. Tôi muốn gửi gắm đôi điều tới lớp trẻ hôm nay: Hãy biết tri ân và sống xứng đáng với sự hy sinh của các thế hệ đi trước; đừng bao giờ mơ hồ trước chiến tranh; phải hiểu rõ rằng bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng không chỉ bằng súng đạn, mà bằng học vấn, văn hóa, đạo đức và hành động có trách nhiệm với xã hội. Tôi mong Nhà nước mình tiếp tục xây dựng chính sách an dân vững mạnh, bảo vệ từ sớm, từ xa, chủ động và kiên định để đất nước phát triển ngày càng tiến bộ và bền vững.
Tôi tin ở thế hệ trẻ hôm nay - thông minh, năng động, yêu nước và có điều kiện học tập hơn trước. Tôi tin ở Đảng và Nhà nước - những người kế tục xứng đáng sự nghiệp mà lớp người đi trước đã dày công vun đắp. Tôi tin ở truyền thống hơn 4.000 năm của dân tộc Việt Nam - nhân hậu, nghĩa tình, kiên cường và không khuất phục. Và tôi tin, những Liệt sĩ đã khuất sẽ không bao giờ “mất”. Họ sống trong mỗi trang sách sử, trong những công trình, nhà máy, trong giấc ngủ bình yên của trẻ thơ, trong những tiếng cười của người mẹ đợi con không trở lại... Họ sống mãi trong hồn thiêng sông núi.
Kính dâng bài viết này như một nén tâm hương nhân ngày 27/7 - ngày của tri ân, của ký ức và của niềm tin.