Trong căn nhà nhỏ ở tổ 3, phường Đăk Bla, tỉnh Quảng Ngãi, ông Nguyễn Trung Hải, Nguyên cán bộ Cơ yếu Tỉnh ủy Kon Tum, nay đã 85 tuổi nhưng vẫn giữ chất giọng hào sảng và trí nhớ minh mẫn. Sáu mươi lăm năm tuổi Đảng là cả một hành trình son sắt, và ký ức về những năm tháng sống, chiến đấu, cống hiến giữa đại ngàn Trường Sơn như vẫn còn nguyên vẹn, sống động.
Ông Nguyễn Trung Hải, Nguyên cán bộ Cơ yếu Tỉnh ủy Kon Tum chia sẻ câu chuyện của mình.
“Đường ra trận mùa này đẹp lắm” - câu hát quen thuộc của thế hệ thanh niên năm ấy cũng chính là niềm tin, là khát vọng của chàng trai 18 tuổi Nguyễn Trung Hải khi rời quê hương Ứng Hòa (Hà Nội) vào cuối năm 1958, để viết đơn tình nguyện vào Nam chiến đấu. Không kịp nghĩ đến gian khổ, hy sinh, lớp lớp thanh niên thời đó chỉ nung nấu một ý chí: được góp sức cho Tổ quốc, được bước vào hàng ngũ những người lính kiên cường.
Sau khóa huấn luyện tại Trường Hạ sĩ quan Cơ yếu Phúc Yên (Phú Thọ), ông Hải cùng đồng đội hành quân vào chiến trường Tây Nguyên. Chuyến đi kéo dài hơn ba tháng, hành trang nặng trĩu trên vai, từng bước chân in đậm dưới mưa bom bão đạn. Cuối cùng, đoàn cán bộ trẻ từ miền Bắc cũng đặt chân đến Tây Nguyên khốc liệt - nơi họ bắt đầu một hành trình mới, âm thầm mà quyết liệt.
Ông được phân công về Ban Cơ yếu Tỉnh ủy Kon Tum. Gọi là “Ban” nhưng khi ấy chỉ có vỏn vẹn hai người: ông và Trưởng Ban Võ Văn Sung (quê Quảng Ngãi). Vài năm sau, lực lượng được bổ sung thêm hai cán bộ nữa từ miền Bắc: Nguyễn Đình Điệu (Hải Phòng) và Nguyễn Văn Thắng (Phú Thọ). Trong điều kiện chiến tranh ác liệt, ít người, thiếu thốn đủ bề, những hạt nhân Cơ yếu vẫn bền bỉ gánh vác sứ mệnh đặc biệt: giữ mạch máu thông tin bí mật, bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng không ngừng thông suốt từ hậu phương đến tiền tuyến.
Tỉnh ủy Kon Tum khi ấy đặt trong thung lũng sâu dưới chân núi Ngọc Linh, giữa quần thể Ngọc Chao Chang, Ngọc Roong, Ngọc Kô Chi cao gần 2.000 mét. Đây là vùng rừng núi hiểm trở, đồng bào Xơ Đăng chiếm đa số, gắn bó thủy chung với cách mạng trong suốt hai cuộc kháng chiến. Chính nơi “đầu sóng ngọn gió” ấy, những người lính Cơ yếu đã sống, làm việc, chiến đấu không chỉ với bản lĩnh chính trị vững vàng mà còn bằng sự giản dị, trong sáng, gắn bó máu thịt với đồng bào, với cách mạng.
Sống và chiến đấu nơi rừng sâu núi thẳm, giữa những tháng ngày khốc liệt của chiến tranh, ông Nguyễn Trung Hải cùng đồng đội đã trải qua hơn một thập kỷ gắn bó với Ban Cơ yếu Tỉnh ủy Kon Tum (1964 - 1975). Trong ký ức của ông, đó là những năm tháng gian khổ đến tận cùng, nhưng cũng là quãng đời đẹp đẽ, hào hùng, in đậm lý tưởng và tình đồng chí, đồng bào.
Ông kể, trụ sở Tỉnh ủy Kon Tum liên tục phải di chuyển do địch càn quét, vây ráp. Nơi làm việc của Ban Cơ yếu, anh em quen gọi là “chòi cơ yếu”, chỉ là căn lán nhỏ dựng bằng cây rừng, lồ ô. Bên trong có một chiếc bàn làm việc chung, vài chiếc võng làm chỗ nghỉ, cạnh đó là bốn hầm trú ẩn đào sâu dưới đất - nơi họ phải chui xuống mỗi khi bom đạn dội về. Công việc hằng ngày diễn ra dưới ánh đèn dầu leo lét, trong căn hầm ẩm thấp, suốt ngày đêm kề cận tài liệu mật và những bộ thiết bị đơn sơ. Vậy mà, “chưa một lần sai sót, dù là nhỏ nhất” - ông Hải nhấn mạnh bằng giọng đầy tự hào.
Có những đêm dài, tiếng máy bay rền vang, bom nổ dội núi. Anh em cán bộ Cơ yếu vẫn lặng lẽ ngồi bên những trang mật mã, kiên nhẫn giải mã từng dòng chữ, từng con số để mạch máu thông tin không bị ngắt quãng. Họ hiểu rằng, chỉ cần một sơ suất nhỏ, một chậm trễ trong giờ phút quyết định cũng có thể ảnh hưởng đến vận mệnh của cả chiến dịch.
Những khó khăn của đời sống thời chiến càng khắc nghiệt hơn nhiều. Ông Hải bùi ngùi nhớ lại những ngày dài triền miên chống chọi với sốt rét ác tính trong hầm bí mật. Cơm chẳng đủ no, muối không đủ ăn. “Nhạt” - một từ ngắn gọn nhưng là nỗi ám ảnh lớn nhất. Không có muối, anh em phải đốt cỏ tranh, nứa, lồ ô lấy tro ăn thay; cũng lấy thứ tro ấy giặt quần áo, chăn màn vì không có xà phòng. Có lúc chỉ còn củ rừng, sắn khô để cầm cự qua ngày. Nhưng chính trong gian khó, tình đồng chí - đồng bào lại càng bền chặt. Cán bộ Cơ yếu sống giữa đồng bào Xơ Đăng, cùng chia sắn củ, cùng dựng lán trại, cùng cưu mang nhau trong những ngày khắc nghiệt nhất.
Ông Hải kể, từ Bí thư Tỉnh ủy, các Ủy viên Ban Thường vụ, cán bộ chủ chốt đến anh em Cơ yếu đều chung một cuộc sống thiếu thốn: đói, đau, nhạt, rách. Không có bất kỳ sự khác biệt nào, không một ai được ưu tiên. Cũng chính sự đồng cam cộng khổ ấy đã tạo nên sức mạnh đoàn kết, tinh thần sắt đá, hun đúc ý chí chiến đấu kiên cường của toàn hệ thống chính trị nơi chiến trường.
Dẫu thiếu thốn, hiểm nguy, nhưng cán bộ Cơ yếu vẫn kiên định, dồn trọn tâm sức, trí tuệ để giữ vững “mạch máu” thông tin. Mỗi bức điện được mã hóa, mỗi bản tin được giải mã chính xác, kịp thời là một đóng góp thầm lặng nhưng quyết định, đảm bảo sự chỉ đạo của Đảng đến tận chiến hào, góp phần làm nên những chiến công vang dội trên chiến trường Tây Nguyên và cả nước.
Trong suốt 11 năm gắn bó với rừng núi Ngọc Linh, ông Nguyễn Trung Hải chưa bao giờ cho phép mình lơ là công việc. Ông nói, mỗi lần hoàn thành một bản mật mã an toàn, ông lại cảm thấy như vừa góp một viên gạch cho con đường đi đến thắng lợi. “Làm việc không kể ngày đêm, không nghĩ đến gian khổ riêng mình, chỉ mong giữ cho dòng chảy thông tin của Đảng luôn thông suốt” - ông hồi tưởng.
Tháng ngày gian khổ đã lùi xa, nhưng ký ức về một thời tuổi trẻ cháy bỏng lý tưởng vẫn luôn vẹn nguyên trong ông. Khi đất nước hoàn toàn giải phóng, non sông liền một dải, ông Hải trở về với mái ấm gia đình, sống bình dị nơi quê nhà. Ở tuổi xưa nay hiếm, ông vẫn cảm thấy vinh dự và tự hào: “Tôi đã được Đảng phân công chi viện cho chiến trường miền Nam, được góp một phần nhỏ bé vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Đó là niềm hạnh phúc lớn nhất đời tôi”.
Hành trình của ông Nguyễn Trung Hải là biểu tượng cho một thế hệ cán bộ Cơ yếu - những người đã chọn cho mình phần việc lặng thầm nhưng vô cùng trọng yếu. Họ không trực tiếp cầm súng xông pha trận mạc, nhưng mỗi trang mật mã, mỗi bản tin tuyệt đối chính xác và an toàn đều góp phần quyết định vào thắng lợi của cách mạng. Được Đảng giáo dục, trui rèn trong “lửa đỏ” chiến tranh, họ đã chứng minh bản lĩnh chính trị vững vàng, dũng khí không sợ hy sinh gian khổ, trung thành tuyệt đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Ngày nay, nhìn lại chặng đường đã qua, những câu chuyện như của ông Nguyễn Trung Hải càng làm sáng rõ thêm truyền thống của ngành Cơ yếu Việt Nam: “Trung thành, tận tụy, đoàn kết, kỷ luật, sáng tạo” . Đó không chỉ là giá trị lịch sử, mà còn là nền tảng, là động lực để các thế hệ cán bộ Cơ yếu hôm nay tiếp tục phát huy, xây dựng ngành ngày càng hiện đại, chính quy, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.