Không chỉ mang ý nghĩa quân sự, chính trị, chiến thắng 30/4 còn là biểu tượng của lương tri và công lý. Sự kiện trọng đại này đã khẳng định với thế giới rằng: Một dân tộc dù nhỏ bé nhưng nếu có chính nghĩa, đoàn kết và quyết tâm sẽ có thể đánh bại mọi thế lực xâm lược, dù hùng mạnh đến đâu. Chiến thắng đã làm nức lòng bạn bè quốc tế, cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên toàn thế giới, đặc biệt tại châu Á, châu Phi và Mỹ Latin.
Bức điện mật của Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Chiến thắng ấy là thành quả kết tinh từ ý chí sắt đá và khát vọng mãnh liệt về một đất nước không còn chia cắt, về quyền tự quyết thiêng liêng của một dân tộc từng bị áp bức, đô hộ. Đó là chiến thắng của chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”; là thành quả của tinh thần đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Từ Bắc chí Nam, từ đô thị đến nông thôn, từ hậu phương lớn miền Bắc đến tiền tuyến lớn miền Nam, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã dồn sức cho một mục tiêu tối thượng: Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trong bản trường ca huy hoàng đó, có một lực lượng âm thầm, bền bỉ, tận tụy cống hiến - đó là lực lượng Cơ yếu - những người lính thầm lặng trên mặt trận đặc biệt đã góp phần quan trọng vào thắng lợi cuối cùng bằng sự chính xác, kỷ luật, tinh thần trách nhiệm và lòng trung thành tuyệt đối với Tổ quốc và nhân dân.
Không phải ngẫu nhiên mà trong những giờ phút quyết định vận mệnh dân tộc, từng bức điện, từng dòng chữ mã hóa lại trở nên thiêng liêng đến vậy. Bởi phía sau những công điện ấy là một hệ thống cơ yếu hoạt động liên tục, bí mật, chính xác, kịp thời, phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh đối với toàn bộ chiến trường miền Nam.
Ngay từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cán bộ, nhân viên cơ yếu đã ngày đêm trực chiến, bảo đảm thông tin thông suốt, an toàn giữa các cấp chỉ huy và chiến trường. Trong suốt gần 30 năm chiến đấu vì độc lập dân tộc, từ Điện Biên Phủ đến đường Trường Sơn, từ Tây Nguyên đến Cửu Long, lực lượng Cơ yếu luôn có mặt tại những nơi nóng bỏng nhất, gian khổ nhất, sát cánh cùng bộ đội, góp phần tạo nên những chiến thắng mang tính bước ngoặt.
Đặc biệt, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, vai trò của ngành Cơ yếu được thể hiện rõ nét. Cuối năm 1974, thực hiện quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị là mở Chiến dịch Tây Nguyên vào mùa xuân năm 1975, ngày 10/01/1975, Cục Cơ yếu Bộ Tổng Tham mưu chỉ đạo Phòng Mã dịch cử một tổ công tác gồm 7 đồng chí phục vụ Đoàn A75 do Đại tướng Văn Tiến Dũng, Tổng Tham mưu trưởng chỉ huy.
Các tổ chức cơ yếu trong cả nước quán triệt sâu sắc chuyển biến trọng đại của tình hình, nhiệm vụ cách mạng, hăng hái, hồ hởi, tin tưởng bước vào giai đoạn chuẩn bị mọi mặt để sẵn sàng nhận và hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao phó.
Ban Cơ yếu Trung ương đã cùng các cơ quan, đơn vị cơ yếu nghiên cứu lập kế hoạch cụ thể và tiến hành công tác bổ sung, điều chỉnh, sắp xếp cán bộ, nhân viên cho các đơn vị; bảo đảm cung cấp các trang, thiết bị nghiệp vụ, đặc biệt là tài liệu mật mã, ưu tiên cho những đơn vị cơ động chiến lược và những đơn vị ở chiến trường chủ yếu.
Trong thời gian này, Trường Cơ yếu Quân đội cùng các các Trường Cơ yếu của hệ Cơ yếu Đảng - Chính Khu 5, Trung ương Cục lựa chọn học viên khá, giỏi tổ chức thành những đại đội riêng tập trung bồi dưỡng kỹ thuật nghiệp vụ trong thời gian ngắn nhất để làm lực lượng dự bị chiến lược, chuẩn bị chi viện kịp thời cho các chiến trường và khẩn trương mở các lớp đào tạo, bổ túc nhằm đáp ứng cho nhu cầu tại chỗ. Với cố gắng cao nhất, sau một thời gian ngắn, Trường Cơ yếu Quân đội đã bồi dưỡng được hơn 300 đồng chí sẵn sàng lên đường làm nhiệm vụ. Các tổ chức cơ yếu trên địa bàn miền Bắc chọn lựa các cán bộ, nhân viên có năng lực kỹ thuật và phẩm chất tốt để khi có lệnh là sẵn sàng bổ sung, tăng cường cho các đơn vị ở phía trước.
Toàn bộ lực lượng cơ yếu tham gia trực tiếp phục vụ cuộc tổng tiến công chiến lược và Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử là 4.165 cán bộ, nhân viên, bảo đảm cho hệ thống mạng liên lạc rộng lớn với 3.703 đầu mối, sử dụng 419 loại kỹ thuật mật mã. Các cơ quan cơ yếu của chiến dịch được trang bị, bổ sung hàng chục tấn phương tiện nghiệp vụ. Đây là một cố gắng vượt bậc của ngành Cơ yếu. Kế hoạch tổ chức bảo đảm lãnh đạo, chỉ huy, chỉ đạo tác chiến đã được chuẩn bị đầy đủ và lớn mạnh về mọi mặt trong mùa Xuân 1975 này. Cụ thể:
Tại mặt trận Tây Nguyên, quân ta mở Chiến dịch tiến công mang tên “Chiến dịch 275”, số cán bộ, nhân viên cơ yếu tham gia gồm 456 đồng chí, đảm bảo liên lạc cho 374 đầu mối, với 70 loại kỹ thuật phục vụ lãnh đạo, chỉ huy của Bộ Chỉ huy chiến dịch, các sư đoàn, các đơn vị, binh chủng, các đơn vị chủ lực và địa phương trên địa bàn Tây Nguyên.
Tại mặt trận Trị - Thiên - Huế (mặt trận B, sau này gọi là mặt trận 475), lực lượng cán bộ, nhân viên cơ yếu gồm 1.144 đồng chí, bảo đảm cho 1.241 đầu mối liên lạc, số lượng các loại kỹ thuật sử dụng là 195 loại, bao gồm tổ chức cơ yếu của các sở chỉ huy tiền phương Bộ, các sở chỉ huy cơ bản, sở chỉ huy tiền phương của Quân khu Trị - Thiên - Huế, Quân khu 5, Quân đoàn 2, Sư đoàn 2, Sư đoàn 3, Sư đoàn 324, Sư đoàn 325, Sư đoàn 304, Lữ đoàn 52, các binh chủng trên địa bàn và các đơn vị địa phương.
Tại mặt trận Tây - Nam và Nam Sài Gòn, lực lượng cán bộ, nhân viên cơ yếu gồm 1.004 đồng chí cùng với 677 đồng chí của các đơn vị phối thuộc, bảo đảm cho 1.678 đầu mối liên lạc, số lượng các loại kỹ thuật mật mã sử dụng là 154 loại phục vụ lãnh đạo, chỉ huy của Bộ Tư lệnh Miền, các Quân khu 7,8,9, Quân đoàn 4, các binh chủng, các đơn vị chủ lực trên địa bàn và các đơn vị địa phương.
Các cơ quan Cơ yếu của các Quân chủng Phòng không - Không quân, Hải quân, các binh chủng Đặc công, Thiết giáp, Công binh, Pháo binh cũng triển khai về mặt tổ chức và kỹ thuật sâu rộng vào các chiến trường ở miền Nam để phục vụ nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ huy tác chiến hiệp đồng binh chủng.
Các tổ chức cơ yếu ở phía sau đến trong tư thế sẵn sàng chi viện người và phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ cho các tổ chức cơ yếu ở phía trước để đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ, phục vụ cho chiến dịch tổng tiến công mùa Xuân 1975.
Từ đây, hàng nghìn công điện chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh và điện báo cáo tình hình chiến trường của A75 đã được Phòng Mã dịch mã hóa, giải mã, chuyển nhận bí mật, chính xác, kịp thời; góp phần quan trọng bảo đảm hoàn toàn bí mật ý định, kế hoạch tác chiến, mã dịch kịp thời điện đi và đến phục vụ lãnh đạo, chỉ huy, tạo thế bất ngờ - điều kiện tiên quyết tạo nên chiến thắng Buôn Ma Thuột mở màn Chiến dịch Tây Nguyên lịch sử.
Trung úy Vũ Chí Hưng, Trợ lý Cơ yếu Ban Cơ yếu Phòng Tham mưu, Sư đoàn 365, Quân chủng Phòng không - Không quân (đi đầu) vinh dự là Khối trưởng Khối đi Sĩ quan Phòng không-Không quân tham gia Lễ diễu binh, diễu hành Kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền nam, thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2025) tại buổi sơ duyệt.
Tại cơ quan Tổng hành dinh, những ngày tháng Tư lịch sử là cuộc chạy đua nghẹt thở với thời gian. Để kịp thời mã hóa và chuyển điện quan trọng của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh đến các đồng chí lãnh đạo ở chiến trường, một Tổ Cơ yếu do đồng chí Võ Minh Châu phụ trách gồm các đồng chí Nguyễn Xuân Phú, Đặng Thị Muôn, Vũ Thị Trọng, Nguyễn Văn Khôi… đã lên mã dịch điện trực tiếp ngay tại nhà làm việc của Quân ủy. Tại đây, Tổ Cơ yếu thường trực 24/24 giờ để mã hóa, giải mã và chuyển đi chính xác, kịp thời, an toàn những bức điện tối khẩn, tuyệt mật với những chữ ký: Ba (Lê Duẩn), Trường Chinh, Tô (Phạm Văn Đồng), Văn (Võ Nguyên Giáp), Thành (Hoàng Văn Thái) gửi các hướng chiến trường với người nhận là: Sáu (Lê Đức Thọ), Bảy Cường (Phạm Hùng), Tuấn (Văn Tiến Dũng). Cụ thể:
Sau khi Đà Nẵng được giải phóng, 16 giờ 20 phút ngày 26/3, Cơ quan Cơ yếu Bộ Tổng Tham mưu đã mã bức điện của đồng chí Lê Duẩn gửi đến chiến trường:
“Tình hình chuyển biến mau lẹ, cuộc cách mạng ở miền Nam đang bước vào giai đoạn phát triển nhảy vọt, tôi đồng ý với các anh em là: lúc này cần hành động hết sức kịp thời, kiên quyết và táo bạo. Trên thực tế có thể coi chiến dịch giải phóng Sài Gòn đã bắt đầu từ đây - chúc các anh em khỏe và thắng to”.
Ngày 07/4, Cơ quan Cơ yếu Bộ Tổng Tham mưu đã truyền đạt bức điện tối khẩn số 157 của Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi các đơn vị: Bộ Tư lệnh Đoàn 559, Tiền phương 559, các quân đoàn, các đơn vị binh chủng đang trên đường hành quân, toàn văn như sau:
“1. Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ từng giờ, từng phút, sốc tới mặt trận giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng.
2. Truyền đạt tức khắc đến Đảng viên, chiến sỹ.
VĂN”
Ngày 14/4/1975, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương thông qua Kế hoạch giải phóng Sài Gòn - Gia Định. Cơ quan cơ yếu đã chuyển bức điện mật số 37 của Bộ Chính trị cho Bộ Chỉ huy chiến dịch với nội dung:
“Đồng ý chiến dịch Sài Gòn lấy tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh”.
Những ngày sau đó, nhiều bức điện mật hết sức quan trọng của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đã được các tổ chức cơ yếu bảo đảm, truyền đạt vào chiến trường với tốc độ hết sức nhanh và hoàn toàn chính xác. Đây là những giờ phút hồi hộp, sung sướng nhất của người chiến sỹ cơ yếu được vinh dự truyền đạt những mệnh lệnh tiến công của Đảng, của Tổ quốc trong thời điểm lịch sử trọng đại của dân tộc.
14h ngày 15/4, tại Sở Chỉ huy tối cao, đồng chí Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã giao nhiệm vụ cho đồng chí Nguyễn Duy Phê, Cục trưởng Cục Cơ yếu Quân đội. Đồng chí Võ Nguyên giáp chỉ thị: “Trong những ngày chiến đấu đặc biệt khẩn trương vừa qua của quân và dân ta trên các mặt trận miền Nam, cán bộ và chiến sỹ, nhân viên cơ yếu đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Quân ủy Trung ương khen ngợi các đồng chí. Cuộc chiến đấu hiện đang tiếp tục và càng gần đến toàn thắng, càng khẩn trương, quyết liệt. Nhiệm vụ bảo đảm bí mật, chính xác, kịp thời nội dung của mệnh lệnh, sự lãnh đạo và chỉ huy của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh có ý nghĩa quyết định đối với thực hiện quyết tâm giải phóng miền Nam. Toàn thể các đồng chí cán bộ, chiến sỹ, đảng viên, đoàn viên, nhân viên của Cục Cơ yếu phải có quyết tâm lớn, tìm mọi cách bảo đảm bằng được yêu cầu đó” - Bút tích của đồng chí Võ Nguyên giáp được lưu trữ tại Cục Cơ yếu Bộ Tổng Tham mưu.
55 ngày đêm của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, yêu cầu chỉ đạo, chỉ huy khẩn trương, liên tục. Từng cán bộ, nhân viên cơ yếu ở Sở Chỉ huy của Bộ Tổng Tư lệnh đến các Sở Chỉ huy tiền phương hay các bộ phận được cử đi phục vụ các hướng, các mũi theo các đoàn quân thần tốc trên các chiến trường đều đề cao tinh thần, trách nhiệm, không quản ngại gian khổ, hy sinh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; tổ chức mã dịch gần 160.000 công điện, trong đó trên 70% là điện Tối khẩn. Riêng Cơ yếu Tổng hành dinh đã mã dịch, chuyển nhận kịp thời, chính xác, bí mật, an toàn gần 41.000, trong đó hơn 600 công điện Khẩn, 139 công điện đặc biệt và hơn 2.000 công điện Tối khẩn dịch ngay. Tốc độ mã hóa của cán bộ, nhân viên cơ yếu thời kỳ này được nâng lên tối đa: từ 7 phút xuống còn 4 phút rưỡi mỗi công điện. Mỗi phút tiết kiệm được là rút ngắn một khoảng cách đến thắng lợi. Có thể nói, trong khoảng thời gian cam go và khẩn trương nhất của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, ngành Cơ yếu đã thực hiện tốt vai trò “trợ thủ thông tin đặc biệt”, đáp ứng mọi yêu cầu lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy của Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh đối với các chiến trường, bảo đảm mạch máu liên lạc thông suốt, làm nên tốc độ “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng” của cuộc tiến công, góp phần xứng đáng vào các chiến công chung của dân tộc.
Đặc biệt, sáng ngày 30/4/1975, đúng 10 giờ 30 phút, Tổ Cơ yếu Tổng hành dinh đã mã dịch và chuyển công điện lịch sử của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương gửi Bộ Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh với nội dung: “Bắt Tổng thống ngụy Dương Văn Minh đầu hàng vô điều kiện”. Một tiếng sau, cơ yếu tiếp nhận điện của đồng chí Lê Trọng Tấn, Phó Tư lệnh Chiến dịch báo cáo: Một đơn vị thuộc Bộ Tư lệnh cánh Đông đã cắm Cờ Quân giải phóng lên nóc dinh Độc Lập. Đó là khoảnh khắc vinh quang không chỉ của quân và dân cả nước mà còn là niềm tự hào sâu sắc của ngành Cơ yếu - lực lượng đã góp phần bảo đảm thắng lợi vĩ đại này bằng chính trí tuệ, kỷ luật và tinh thần cống hiến không biết mỏi mệt.
Từ những ngày gian khổ của cuộc chiến, ngành Cơ yếu đã rút ra những bài học quý báu về sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao, thống nhất từ Trung ương đến các cấp; sự chuẩn bị chu đáo về lực lượng, phương tiện; sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ yếu, thông tin và tác chiến; nhưng trên hết là tinh thần trách nhiệm, tận tụy của mỗi cán bộ, nhân viên cơ yếu - những người lính thầm lặng nhưng góp phần làm nên những chiến công vang dội.
Với tất cả những bài học từ quá khứ, với tất cả sự đoàn kết hôm nay, nhất định ngành Cơ yếu Việt Nam nói riêng và cả nước nói chung sẽ viết tiếp những chương mới rực rỡ trong hành trình phát triển của mình, vì một nước Việt Nam độc lập, tự do, hạnh phúc, phồn vinh, văn minh, thịnh vượng, có vị thế và tiếng nói quan trọng trong cộng đồng quốc tế như mong ước của Tổng Bí thư Tô Lâm.