|

Đồng chí Đỗ Văn Ân như tôi biết

20:59 | 16/02/2025

CYVN - Tận tụy và trách nhiệm với việc Đảng, việc dân, dù ở cương vị nào khi đương nhiệm cũng giữ tròn liêm chính. Sống giản dị, nghĩa tình với bạn bè, đồng nghiệp. Đó là những điều tôi biết (có thể chưa đầy đủ) về ông Đỗ Văn Ân, Nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Nguyên Bí thư Tỉnh ủy Sơn La, Nguyên Trưởng ban Ban cơ yếu Chính phủ.

Tôi biết ông Đỗ Văn Ân giữa những năm 80 của thế kỷ trước khi ông còn làm Trưởng Ban tổ chức tỉnh ủy Hà Sơn Bình (trước đây) vì tôi ở trong khu tập thể cùng ông tại thị xã Hà Đông. Càng hiểu ông hơn khi ông làm Bí thư tỉnh ủy Sơn La, còn tôi được Báo Nhân dân cử lên làm phóng viên thường trú tại tỉnh này, cũng như thời kỳ ông về làm Trưởng ban Ban Cơ yếu Chính phủ. Sơn La những năm 80 - 90 thuộc diện một trong những tỉnh nghèo nhất cả nước; đã vậy dịch sốt rét hoành hành (1990-1991), rồi trận lũ lịch sử xảy ra ngày 27/7/1991 đã cuốn trôi hàng trăm nóc nhà và khiến hơn 40 người bị thiệt mạng. Công cuộc đổi mới đất nước diễn ra năm 1986 nhưng thập niên 90, Sơn La vẫn còn 50-60% hộ nghèo đói (khoảng 4 vạn người bị đứt bữa) do đời sống vẫn nặng về tự cấp tự túc; địa hình bị chia cắt phức tạp, hơn 20 xã chưa có đường ô tô vào được trung tâm... Phải làm sao tìm hướng đi phù hợp trong phát triển kinh tế - văn hóa, xã hội nhằm góp phần giúp đồng bào 12 dân tộc trong tỉnh giảm bớt đói nghèo, con em trong độ tuổi thoát cảnh mù chữ? Vốn là một cán bộ trưởng thành từ phong trào thanh niên xung phong, công nhân khai thác đá Chẹ, Ba Vì rồi kinh qua hoạt động công đoàn, công tác tổ chức cán bộ nên Bí thư Tỉnh ủy Đỗ Văn Ân xác định phải sâu sát thực tiễn mới đề ra được các chủ trương, chính sách phù hợp với đặc điểm tình hình của địa phương.

Dựa vào cán bộ văn phòng người sở tại, ông Đỗ Văn Ân học tiếng Thái, tiếng Mông (dù chỉ là những từ ngữ và câu nói đơn giản để giao tiếp thông thường) và thực hiện những chuyến thâm nhập thực tế. Một số cán bộ, chuyên viên Văn phòng tỉnh ủy Sơn La vẫn chưa quên không ít lần “tháp tùng” vị lãnh đạo tỉnh có khuôn mặt hao gầy nhưng nụ cười nhân hậu, cuốc bộ hàng chục tiếng đồng hồ đến các xã, bản vùng cao biên giới ở các huyện Thuận Châu, Bắc Yên, Sông Mã, Yên Châu... để nắm tình hình thực tế đang diễn ra ở cơ sở. Nhờ những chuyến đi này kết hợp với các cuộc bàn thảo, tranh luận trong Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh mà hơn hai nhiệm kỳ ông Ân làm Bí thư, Sơn La đã triển khai và thực hiện (có bổ sung) chủ trương, quyết sách về vùng kinh tế động lực dọc quốc lộ 6; Chương trình phát triển cây công nghiệp (cà phê, dâu tằm) và cây ăn quả; Chương trình đàn bò sữa ở Mộc Châu và các dự án vùng lòng hồ Sông Đà, vùng cao biên giới; những động thái chuẩn bị cho Dự án thủy điện Sơn La trên sông Đà… Ông Ân chia tay Sơn La trong cảm xúc “Tạm biệt nhé Sơn La thương mến/Bồi hồi xao xuyến lúc chia tay/Người về xuôi lòng còn để lại/Lưu luyến nhớ thương mãi tràn đầy”. Vì thế chăng mà ông xa Tây Bắc đã 26 năm nhưng trước mỗi kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh, Thường vụ Tỉnh ủy Sơn La đều cử cán bộ về Hà Nội xin ý kiến tham vấn của người Bí thư tiền nhiệm; hoặc mỗi dịp trong tỉnh có sự kiện gì quan trọng diễn ra, họ đều trân trọng mời ông về cùng tham dự.

Đồng chí Đỗ Văn Ân, Nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Nguyên Trưởng ban Ban Cơ yếu Chính phủ tại nhà riêng khi đã nghỉ hưu

Tháng 9/1996, ông Đỗ Văn Ân theo quyết định của Bộ Chính trị về làm Trưởng ban Ban Cơ yếu Chính phủ. Xung quanh câu chuyện chuyển môi trường công tác này, ông Ân chia sẻ: sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Tổng bí thư Đỗ Mười khi đó gặp ông trao đổi: “Ban Cơ yếu đang cần một người như chú về để quy tụ, đoàn kết anh em nhằm vận hành công việc cơ mật của Đảng, Nhà nước một cách hiệu quả”. Ông Ân có phần băn khoăn “Em làm công tác công đoàn, công tác tổ chức Đảng hay chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội của một tỉnh còn được chứ cơ yếu là lĩnh vực mang nặng tính chuyên môn kỹ thuật, trong khi em không được đào tạo về lĩnh vực này”. “Chú về đây chủ yếu làm công tác Đảng, là gắn kết những con người ở đây để công việc trôi chảy hơn. Tôi tin là chú sẽ làm tốt”. Trước những lời tâm sự và cũng là mệnh lệnh của đồng chí Tổng Bí thư, ông Đỗ Văn Ân chia tay Sơn La trong sự bịn rịn của đồng chí, đồng bào; chia tay căn nhà công vụ được xây dựng từ thời Khu tự trị Thái Mèo đã xuống cấp để về Hà Nội nhận nhiệm vụ mới.

Cơ yếu là ngành khoa học kỹ thuật mang tính đặc thù thuộc lĩnh vực an ninh quốc gia. Những ngày đầu về Ban Cơ yếu, ông Ân bảo phải xuống các Cục, Vụ, Viện và đơn vị trực thuộc để làm quen và nắm bắt hoạt động trong ngành. Ba năm đầu, ngoài giờ làm việc chính ông Ân tranh thủ thời gian nghỉ trưa tại cơ quan và buổi tối tại nhà đọc và nghiên cứu các tài liệu nói về quá trình xây dựng và phát triển của ngành Cơ yếu; hoạt động của Cơ yếu Quân đội, Cơ yếu Công an, đồng thời nhờ các cán bộ lâu năm trong Ngành bổ trợ cho một số kiến thức nghiệp vụ mật mã. Vừa làm vừa học, từng bước ông Đỗ Văn Ân vững tin hơn trong lãnh đạo, chỉ đạo các hoạt động của Ngành. Bên chén trà buổi sáng se lạnh cuối năm (do Công ty chè Mộc Châu gửi tặng), ông hồi tưởng: Chưa phải đã xuôi chèo mát mái tất cả nhưng dựa vào trí tuệ tập thể, tôi đã cùng Lãnh đạo Ban Cơ yếu Chính phủ tham mưu cho Đảng và Nhà nước xây dựng và ban hành Chiến lược phát triển ngành Cơ yếu đến năm 2010; xây dựng Đề án Chỉ thị của Bộ Chính trị về hoạt động của ngành Cơ yếu trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mặt khác tìm giải pháp nối lại quan hệ truyền thống và thúc đẩy mối quan hệ hợp tác trong lĩnh vực chuyên ngành lên một bước mới với Cộng hòa Liên bang Nga, Cu Ba, Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào anh em... Về công tác tại Ban Cơ yếu Chính phủ trong hoàn cảnh Ngành đã phát triển được hơn 50 năm tuy nhiên vẫn chưa có một văn bản quy phạm pháp luật được Quốc hội ban hành. Điều đó đặt ra nhiệm vụ cho Ban Cơ yếu Chính phủ phải tham mưu cho Chính phủ, xây dựng được Pháp lệnh về hoạt động của ngành Cơ yếu trong tình hình mới. Ông Đỗ Văn Ân nhớ lại: Những năm 1998-2000, sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển ngành Cơ yếu đến năm 2010, một Ban Chỉ đạo soạn thảo Pháp lệnh Cơ yếu có sự tham gia của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Bộ Nội vụ do ông Ân làm trưởng ban được thành lập. Tổ Biên tập Pháp lệnh gần 20 thành viên được hình thành và hoạt động cật lực; trải qua 30 lần trao đổi, bàn thảo và chỉnh sửa bản dự thảo về Pháp lệnh Cơ yếu được hoàn chỉnh. Ban Chỉ đạo soạn thảo cũng đã mấy lần trình Chính phủ, không ít ý kiến tranh luận, phản biện Điều 17 trong nội dung pháp lệnh (về chế độ, chính sách của cán bộ, nhân viên ngành Cơ yếu). Tranh thủ ý kiến của các cơ quan chức năng có thẩm quyền, cuối cùng ngày 04/4/2001, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa IX, tại kỳ họp thứ 41 đã thông qua Pháp lệnh Cơ yếu trong niềm vui mừng, phấn khởi của toàn Ngành lúc đó.

Ngành Cơ yếu khi ông về nhận trọng trách đã có quá trình xây dựng và phấn đấu hơn nửa thế kỷ. Được xem Bảo tàng của ngành, tìm hiểu lịch sử truyền thống với biết bao thành tích, chiến công thầm lặng (hơn 800 cán bộ, chiến sỹ hy sinh) qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, phía Nam cũng như phục vụ công cuộc xây dựng đất nước, nhưng chưa hề có một phần thưởng nào xứng đáng. Quả là một thiệt thòi cho các thế hệ cán bộ, nhân viên trong Ngành. Thấu hiểu điều đó, ông Đỗ Văn Ân cùng tập thể lãnh đạo Ban Cơ yếu đã tiến hành các thủ tục, kiến nghị và đề xuất Chính phủ, Quốc hội và các cơ quan chức năng xem xét có những hình thức khen thưởng thích đáng. Kết quả là từ năm 1999 đến năm 2001, Chủ tịch nước đã Quyết định phong tặng danh hiệu Anh hùng cho 12 tập thể và truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang cho một cá nhân liệt sỹ trong ngành Cơ yếu Việt Nam. Đúng như tinh thần trong bài thơ “Vang mãi khúc ca đội quân Cơ yếu” ông từng viết “Là đội quân tuyệt đối trung thành/ Vượt gian nan tận tụy hy sinh/ Hướng tới chiến công, cho niềm vui chiến thắng/ Tổ quốc ta mãi mãi yên bình”... Tết Quý Mão này, ông Đỗ Văn Ân bước vào tuổi 86, người cán bộ cách mạng lâu năm (64 năm tuổi đảng) ngoài sống vui, sống khỏe với con cháu, ông tham gia sinh hoạt các hội hè; thăm hỏi anh em đồng nghiệp trước đây từng công tác và chiến đấu; khi có cảm xúc hứng khởi ông gửi nỗi lòng vào những vần thơ. Rời Ban Cơ yếu về nghỉ hưu đã gần 20 năm, nhưng ông Ân vẫn thường xuyên quan tâm theo dõi hoạt động của cơ quan nơi mình từng gắn bó. Theo ông Luật Cơ yếu đã được ban hành năm 2011, nhất là chiến lược phát triển ngành Cơ yếu Việt Nam đến năm 2030 và định hướng đến 2045 đã được Bộ Chính trị thông qua tại Nghị quyết số 56 - NQ/TW. Ông Ân hy vọng với sự đoàn kết, đổi mới, không ngừng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, ngành Cơ yếu nước ta sẽ góp phần đắc lực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong bối cảnh hội nhập diễn ra ngày càng sâu rộng.

Để lại bình luận