Chuyển đổi số là quá trình thay đổi tổng thể và toàn diện của cá nhân, tổ chức về cách sống, cách làm việc và phương thức sản xuất dựa trên các công nghệ số. Chuyển đổi số là bước phát triển tiếp theo của tin học hóa, có được nhờ sự hội tụ của những công nghệ mới mang tính đột phá, như: điện toán đám mây (Cloud computing), Internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn (Big Data), trí tuệ nhân tạo (AI)... Chuyển đổi số giúp chuyển đổi các tổ chức, doanh nghiệp từ hình thái thực lên không gian số, tạo ra phương thức làm việc mới và những sản phẩm, dịch vụ mới mang tính cách mạng. Chuyển đổi số là con đường chứ không phải là đích đến, là một quá trình lâu dài, phức tạp và không có điểm kết thúc.
Ban Cơ yếu Chính phủ là cơ quan mật mã quốc gia quản lý chuyên ngành về cơ yếu, có trách nhiệm giúp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về cơ yếu; bảo mật, ATTT lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang thông qua hoạt động nghiên cứu, sản xuất, triển khai các sản phẩm kỹ thuật nghiệp vụ mật mã, cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số chuyên dùng Chính phủ, tham gia giám sát an ninh ATTT cho các hệ thống thông tin trọng yếu quốc gia; quản lý mật mã dân sự phục vụ phát triển kinh tế xã hội góp phần đảm bảo an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Chính vì vậy, CĐS hoạt động cơ yếu cần phải hướng đến mục tiêu “Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong hoạt động Cơ yếu; thúc đẩy phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số, coi CĐS là phương thức phát triển mới, có tính đột phá để góp phần xây dựng, phát triển ngành Cơ yếu Việt Nam cách mạng, chính quy, hiện đại, đáp ứng yêu cầu bảo mật, ATTT lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, chỉ huy của lực lượng vũ trang trong thời kỳ mới”.
Để đạt được mục tiêu trên, Ban Cơ yếu Chính phủ định hướng ưu tiên thực hiện CĐS 05 lĩnh vực cốt lõi, cụ thể:
1. Chuyển đổi số trong hoạt động quản lý, điều hành, tác nghiệp của Ban Cơ yếu Chính phủ
Ứng dụng các công nghệ số trong hoạt động quản lý, điều hành, tác nghiệp của Ban Cơ yếu Chính phủ, từng bước hình thành môi trường số, hệ sinh thái số toàn diện; trong đó tập trung các ứng dụng, dịch vụ phục vụ quản lý, điều hành, tác nghiệp, gồm: Hệ thống quản lý văn bản và điều hành tác nghiệp; Hệ thống thông tin báo cáo và quản lý, điều hành, chỉ huy toàn diện; Hệ thống cổng thông tin điện tử; Hệ thống môi trường làm việc số và số hóa các quy trình nghiệp vụ...
2. Chuyển đổi số lĩnh vực quản lý tổ chức lực lượng cơ yếu
Xây dựng cơ sở dữ liệu, ứng dụng quản lý tổ chức lực lượng cơ yếu giúp quản lý tổ chức biên chế và người làm công tác cơ yếu cả về số lượng, trình độ, phẩm chất, năng lực, quá trình công tác, quá trình đào tạo, yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng kiến thức theo tiêu chuẩn chức danh và yêu cầu của vị trí việc làm. Ngoài ra, việc đưa các hoạt động nghiệp vụ lên môi trường số giúp có thêm nhiều nguồn dữ liệu để đo lường, đánh giá hiệu quả công việc được thể hiện qua số liệu, tỷ lệ, chỉ tiêu định lượng nhằm phản ánh hiệu quả hoạt động của các tổ chức hoặc bộ phận chức năng hay cá nhân. Qua đó giúp cho việc hoàn thiện cơ cấu tổ chức, biên chế, chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của các cơ quan, đơn vị, sắp xếp sử dụng lực lượng bảo đảm phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ.
3. Chuyển đổi số lĩnh vực quản lý kỹ thuật, nghiệp vụ mật mã
Quản lý, triển khai sử dụng kỹ thuật mật mã, thiết bị nghiệp vụ bảo đảm cho hoạt động cơ yếu trong phạm vi cả nước đáp ứng kịp thời yêu cầu bảo mật thông tin lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy của Đảng, Nhà nước và lực lượng vũ trang là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của hoạt động cơ yếu. Ban Cơ yếu Chính phủ xác định CĐS lĩnh vực kỹ thuật, nghiệp vụ mật mã bằng việc đẩy mạnh việc nghiên cứu, sản xuất và triển khai các thiết bị mật mã thông minh, cho phép khả năng giám sát, quản trị, cập nhật mật mã, bảo trì sửa chữa sự cố từ xa; xây dựng hệ thống giám sát, quản trị tập trung đối với hệ thống thông tin cơ yếu, các thiết bị mật mã; hình thành kho dữ liệu tổng hợp về lĩnh vực quản lý thiết bị mật mã giúp phân tích, báo cáo phục vụ công tác quản lý, điều hành và hỗ trợ ra quyết định.
4. Chuyển đổi số lĩnh vực cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số chuyên dùng công vụ
Nâng cấp, mở rộng hệ thống chứng thực chữ ký số chuyên dùng Chính phủ theo hướng CĐS, lấy người dùng làm trung tâm, áp dụng các công nghệ giúp số hóa, thông minh hóa, tự động hóa quá trình cung cấp sản phẩm, dịch vụ (ví dụ Dịch vụ ký số từ xa, cổng dịch vụ công, hệ thống quản lý vòng đời chứng thư số, hệ thống hỗ trợ kỹ thuật, hệ thống giám sát hoạt động dịch vụ…) đáp ứng nhu cầu ứng dụng chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số phục vụ CĐS quốc gia. Hình thành kho dữ liệu tổng hợp về lĩnh vực chứng thực chữ ký số chuyên dùng Chính phủ giúp phân tích, báo cáo phục vụ công tác quản lý, điều hành, tác nghiệp và hỗ trợ ra các quyết định.
5. Chuyển đổi số lĩnh vực quản lý mật mã dân sự
Nâng cấp, mở rộng hệ thống cung cấp dịch vụ công về quản lý cấp phép kinh doanh, cấp phép xuất nhập khẩu, cấp chứng nhận hợp chuẩn, hợp quy sản phẩm, dịch vụ mật mã dân sự theo hướng CĐS, lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm. Triển khai hệ thống ứng dụng nghiệp vụ quản lý mật mã dân sự, kiểm định sản phẩm mật mã, hình thành kho dữ liệu tổng hợp về lĩnh vực quản lý mật mã dân sự, kiểm định sản phẩm mật mã phục vụ công tác quản lý, điều hành, tác nghiệp và hỗ trợ ra quyết định.
Để thực hiện thành công CĐS hoạt động cơ yếu cần có các giải pháp tập trung vào 3 trụ cột: con người, thể chế và công nghệ. Trong đó, con người là yếu tố tiên quyết, cần chuyển đổi nhận thức một cách toàn diện theo hướng CĐS, bồi dưỡng năng lực số và xây dựng văn hóa số trong mỗi cá nhân. Thể chế là hành lang pháp lý, cơ chế, chính sách, là nền tảng quan trọng cho sự đổi mới. Thể chế bao gồm hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và hệ thống văn bản quy phạm nội bộ như quy chế, quy định, quy trình. Để CĐS thành công, nhất định cần chuyển đổi thể chế theo hướng hỗ trợ CĐS, làm nền tảng và động lực cho CĐS. Công nghệ là yếu tố then chốt, là động lực thúc đẩy quá trình CĐS thành công. Trong công nghệ tập trung phát triển: hạ tầng số; nền tảng số; dữ liệu số; ứng dụng số. Cụ thể:
Thứ nhất, chuyển đổi nhận thức, phát triển năng lực số, xây dựng văn hóa số
Chuyển đổi số trước tiên là chuyển đổi nhận thức. Từ cấp ủy, chỉ huy các cấp đến toàn thể cán bộ, nhân viên trong toàn Ngành phải có nhận thức và tư duy đúng đắn về CĐS. Trong đó, nhận thức và quyết tâm chính trị của người đứng đầu là điều kiện tiên quyết để từ đó truyền nhận thức, cảm hứng, khát vọng và quyết tâm thay đổi tới toàn thể đội ngũ cán bộ, nhân viên.
Phát triển năng lực số của từng cá nhân và trong tổ chức là yếu tố quyết định đến sự thành công của CĐS. Năng lực số là năng lực làm việc và tương tác trên môi trường số gồm: có tư duy số, năng lực sử dụng các thiết bị công nghệ số, các ứng dụng số, dữ liệu số, năng lực giao tiếp, năng lực bảo vệ an toàn… phục vụ cho công việc và cuộc sống. Xây dựng khung năng lực số phù hợp cho từng đối tượng, chức danh, vị trí công tác làm cơ sở nền tảng để phát triển các khóa đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao năng lực số cho các cá nhân và tổ chức thuộc Ban và Ngành.
Văn hóa số là thái độ, hành vi, thói quen liên quan đến việc sử dụng các công nghệ số hình thành bên trong tổ chức. Trong quá trình CĐS, văn hóa số cần phải được hình thành và phát triển song hành khi tổ chức áp dụng các công nghệ số, môi trường số. Công nghệ, môi trường tác động và thay đổi cách thức tương tác giữa các cá nhân, các bộ phận, giữa cấp trên và cấp dưới cũng như niềm tin, thái độ của mỗi cá nhân.
Thứ hai, hoàn thiện thể chế hỗ trợ CĐS
Thể chế và CĐS là hai chủ thể có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau, bổ sung cho nhau, diễn ra thường xuyên, liên tục. Thể chế tạo cơ sở pháp lý để chấp nhận cái mới, chấp nhận mô hình và quy trình hoạt động mới, chấp nhận công nghệ mới, thúc đẩy quá trình CĐS; và ngược lại CĐS cũng phản ánh yêu cầu của thực tiễn để thế chế tiếp tục được hoàn thiện hơn.
Ban Cơ yếu Chính phủ đã và đang tập trung nghiên cứu, rà soát, củng cố, hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, văn bản quy phạm nội bộ nhằm thúc đẩy quá trình CĐS; trong đó nhất định phải có các quy định nhằm tạo không gian cho việc chấp nhận mô hình, phương thức quản lý và công nghệ mới trong công tác quản lý, chỉ huy, điều hành. Chẳng hạn như cần quy định việc không sử dụng phương thức báo cáo truyền thống như trước đây mà thay vào đó là quá trình tổng hợp, phân tích dữ liệu tự động và ra quyết định dựa trên dữ liệu thông qua hỗ trợ của công nghệ AI…
Thứ ba, phát triển hạ tầng số, nền tảng số, triển khai ứng dụng dữ liệu số, đảm bảo ATTT
Phát triển hạ tầng số
Trong quá trình thực hiện CĐS, hạ tầng số được xem là yếu tố nền tảng cần được quan tâm, ưu tiên triển khai sớm đảm bảo sự đồng bộ, hiện đại. Kế hoạch xây dựng hạ tầng số phục vụ CĐS của Ban Cơ yếu Chính phủ dựa trên cơ sở kế thừa, phát triển từ các nền tảng hạ tầng sẵn có; xác định rõ mục tiêu, ưu tiên bố trí nguồn lực để tập trung thực hiện đồng bộ nền tảng hạ tầng công nghệ thông tin trọng yếu, như: Hạ tầng điện toán đám mây, hạ tầng đường truyền Internet băng thông rộng, đường truyền số liệu chuyên dùng Chính phủ, đường truyền nội bộ, ứng dụng địa chỉ giao thức Internet thế hệ mới (IPv6); Trung tâm điều hành thông minh, Trung tâm giám sát ATTT, hạ tầng CA chuyên dùng Chính phủ…
Phát triển nền tảng số, dữ liệu số
Khác với giai đoạn tin học hóa, CĐS hướng đến xây dựng môi trường số, hệ sinh thái số; thay vì xây dựng các ứng dụng giải quyết các bài toán nghiệp vụ riêng rẽ thì CĐS hướng đến phát triển các nền tảng số dùng chung, các ứng dụng, dịch vụ sẽ được phát triển trên các nền tảng hoặc sử dụng tối đa các dịch vụ do nền tảng cung cấp để vừa tiết kiệm thời gian, chi phí vừa đảm bảo tính liên thông, thống nhất và hình thành hệ sinh thái số, môi trường số.
Các nền tảng số cần phát triển gồm: Nền tảng định danh, xác thực tập trung; Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu...
Dữ liệu số là yếu tố quan trọng mang tính quyết định của quá trình CĐS. Ban Cơ yếu Chính phủ cần xây dựng kho cơ sở dữ liệu bao gồm các cơ sở dữ liệu dùng chung (để chia sẻ, sử dụng thống nhất trong toàn Ban và Ngành) và kho dữ liệu tổng hợp (gồm tất cả các mặt hoạt động, ưu tiên dữ liệu của các lĩnh vực cốt lõi) phục vụ báo cáo, phân tích, tổng hợp, hỗ trợ ra quyết định.
Bảo đảm bảo mật, ATTT
Khi chuyển đổi mọi hoạt động, mọi dữ liệu được đưa lên môi trường số và có sự liên thông chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan, đơn vị thì vấn đề bảo mật, ATTT là yếu tố then chốt để tạo niềm tin số, giúp chuyển đổi các hoạt động lên môi trường số một cách an toàn, tin cậy.
Ban Cơ yếu Chính phủ tập trung nghiên cứu, áp dụng tổng thể các giải pháp giúp đảm bảo bảo mật, ATTT, như: Đảm bảo ATTT cho các hệ thống thông tin quan trọng; sử dụng hệ thống giám sát ATTT, hệ thống phân tích và phòng chống mã độc, hệ thống ứng cứu sự cố ATTT cho các hệ thống thông tin; sử dụng các sản phẩm mật mã của Ngành để bảo mật dữ liệu trên đường truyền, dữ liệu lưu giữ trên các thiết bị điện tử, tin học và trên mạng viễn thông...
Trong bối cảnh hiện nay, CĐS không chỉ là xu hướng mà đã trở thành tất yếu khách quan, tạo ra sự thay đổi mang tính tổng thể và toàn diện. Trên cơ sở quan điểm và định hướng của Ban Cơ yếu Chính phủ, mỗi cơ quan, đơn vị trong toàn Ngành cần nhanh chóng hoạch định cho mình một kế hoạch và phương pháp thực hiện CĐS phù hợp. Người đứng đầu mỗi cơ quan, đơn vị hãy là người tư duy, lựa chọn định hướng, xác định mục tiêu, ra đề bài về CĐS và quan trọng hơn là luôn đồng hành trên hành trình CĐS của cơ quan, đơn vị mình nói riêng và của Ban Cơ yếu Chính phủ và ngành Cơ yếu Việt Nam. Bằng sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, hành động đồng bộ ở các cấp là yếu tố bảo đảm sự thành công cho chương trình CĐS hoạt động Cơ yếu.