|

Những bức điện “Dịch ngay”

20:25 | 01/09/2025

CYVN - Trong kháng chiến chống Mỹ, những cán bộ, chiến sĩ cơ yếu đã lặng thầm chiến đấu bằng trí tuệ và ý chí kiên cường, góp phần làm nên những chiến công vang dội của dân tộc. Bài viết "Những bức điện dịch ngay” của đồng chí Nguyễn Như Khoa, một cán bộ Cơ yếu lão thành đã ghi lại những hồi ức chân thực về hành trình gian khổ, về những bức điện “dịch ngay” ở những thời khắc lịch sử trọng đại. Đây không chỉ là ký ức của một người trong cuộc mà còn là minh chứng sinh động cho truyền thống "Trung thành, tận tụy, đoàn kết, kỷ luật, sáng tạo" của ngành Cơ yếu Việt Nam trong suốt chặng đường 80 năm xây dựng và trưởng thành.                            

Tròn 18 tuổi, tôi được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam và được trao ngay trọng trách làm Bí thư Đoàn xã Nam Thượng (nay là xã Đồng Sơn, Nam Trực, Nam Định) khi còn là đảng viên dự bị. Tháng 9/1966 tôi nhập ngũ thuộc Sư đoàn 330, sau ba tháng huấn luyện, tôi được chọn đi học lớp “cán bộ đặc biệt” với bản lý lịch cá nhân “ba đời trong sạch” tại Trường huấn luyện kỹ thuât Bộ Tổng Tham mưu (trường Kỹ thuật mật mã) đóng tại Thành Đỏ, thị xã Phúc Yên, Vĩnh Phúc. Tôi được biên chế vào Lớp 167C, là lớp KTC đầu tiên của ngành Cơ yếu gồm trên 50 cán bộ Quân đội, Công an, Dân chính từ các đơn vị tuyển chọn về.

Từ đây, tôi bắt đầu làm quen với kỹ thuật “Ta nô”, “Mã dịch” và các thuật ngữ tiếng lóng “I, rông, canh” - I, R, Q thật lạ lẫm, nhưng cũng tò mò, thích thú. Chúng tôi đều xác định đã vào ngành Cơ yếu, trước hết phải trung thành, thuộc lòng phương châm “Bí mật, chính xác, kịp thời” và sẵn sàng để bơi vào thế giới sáu chữ M “Mênh mông - Mòn mỏi - Mờ mắt” từ chính “cái đầu” của mình với tất cả con chữ, con số hiện hữu.

Không như kỹ thuật số (nhóm 5 số), học kỹ thuật KTC (từ điển nhóm 3 chữ, mật điện nhóm 5 chữ) rất khó, sơ suất là bị “chệch dòng” ngay. Nhưng do có kỹ năng và sáng dạ, nên khi tốt nghiệp tôi được công nhận là học viên giỏi, được tuyển chọn, điều động về Ban thống nhất Trung ương cùng với thượng úy Nguyễn Ngọc Trác, trung sĩ Nguyễn Văn Sử tăng cường cho Ban Cơ yếu B3 (mặt trận Tây Nguyên).

Sau ba tháng hành quân vượt Trường Sơn ròng rã, gian khổ, ác liệt, hàng ngày với 40kg trên vai cùng khẩu súng ngắn K54, chúng tôi gửi lại hậu phương thân yêu lời  hẹn ước: “Ra đi miền Bắc vẫy chào/ Miền Nam ra đón dạt dào tình thương”; “Ra đi ước hẹn ngày về thăm quê/Chưa tan hết giặc ta chưa về”… Thực hiện ước mơ, hoài bão và lý tưởng của thanh niên thế hệ Hồ Chí Minh, trong khí thế hào hùng, cả nước cùng ra mặt trận.

Tháng 7/1968 chúng tôi đã vào tới Bộ Tư lệnh B3 ở bắc Kon Tum, đóng ở vùng MoRay H67 Sa Thầy. Đón chúng tôi là Đại úy Đỗ Bồng quê Hải Dương, Trưởng ban cùng gần 30 cán bộ, nhân viên Ban Cơ yếu B3 (Ban 6). Từ đây, chúng tôi bắt đầu găn bó với nhau, cùng nhau trải qua 05 năm trời ròng rã “đói cơm, thiếu muối”, với những cơn sốt rét rừng quái ác, cùng hứng chịu những trận bom B52, B57 trút xuống ngày đêm. Những cánh rừng bạt ngàn của núi rừng Tây Nguyên, của đồng bào dân tộc Ba Na, Ê Đê bị bọn xâm lược rải thảm chất độc hóa học tàn phá… đã cướp đi mạng sống của bao đồng đội, đồng nghiệp thân yêu của chúng tôi, người còn sống cũng lụi tàn tuổi thanh xuân nơi chiến tuyến hoặc mang trong mình mầm mống chất động dioxin dai dẳng suốt đời...

 Là người nắm giữ kỹ thuật mới (KTC), ba anh em chúng tôi được bổ sung vào Tổ 1 của Ban Cơ yếu, là tổ chiến lược có nhiệm vụ tiếp nhận sự chỉ đạo trực tiếp từ Quân ủy Trung ương, Bộ Tư lệnh Miền B2 (Trung ương Cục) và Quân khu 5 để chuyển tận tay Thiếu tướng Hoàng Minh Thảo, Tư lệnh B3 (tướng Hoàng Minh Thảo tên thật là Tạ Thái An sinh năm 1921, quê Hưng Yên. Năm 1941 tại chiến khu Việt Bắc, Bác Hồ đã đặt cho ông là Hoàng Minh Thảo với hàm ý là con người thông minh, uyên bác, nghĩa tình, thảo thơm. Tướng Thảo rất trân quý Bác, luôn được Bác quan tâm, rèn giũa, là sĩ quan quân đội trẻ nhất được phong hàm Đại tá năm 1948). Tôi được phân công mã dịch các công điện  tuyệt mật “dịch ngay”, “điện chỉ định người dịch” được mã hóa phát từ Hà Nội, Trung ương Cục (R) và Quân khu… qua sóng vô tuyến điện.

 05 năm ở Ban Cơ yếu B3, bằng trí tuệ, nghị lực tôi đã dịch hàng ngàn bức điện mang tính chỉ đạo chiến lược, chiến thuật chuyển tới Tư lệnh, Thiếu tướng Hoàng Minh Thảo để kết tinh lại bằng cuộc đối đầu lịch sử mang tính quyết định, đập tan tuyến phòng thủ mạnh nhất của Việt Nam cộng hòa ngày 10/3/1975 tại Buôn Ma Thuột, tạo đà cho Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trong cuộc đời làm cơ yếu của mình, tôi có ấn tượng sâu sắc, đậm nét về những bức điện “dịch ngay” mà đã hơn 50 năm vẫn không phai mờ trong tâm trí tôi, đó là những bức điện ở ba thời điểm:

Những ngày cuối đời của Bác Hồ muôn vàn kính yêu (tháng 8/1969)

 Đầu tháng 8/1969 sức khỏe của Bác đã suy giảm, cứ 5 ngày Quân ủy Trung ương lại gửi “Thông báo về sức khỏe của Bác” tới lãnh đạo các Quân khu. Từ ngày 17/8/1969, Bác mệt nặng, cứ hai ngày, lại nhận được tin Bác từ các bức điện “dịch ngay” qua mạng KTC, sau khi dịch xong nội dung, tôi chuyển cho Trưởng ban Đỗ Bồng và được hỏa tốc trao tận tay thư ký của Tướng Hoàng Minh Thảo. Ngày 25/8 sức khỏe Bác rất yếu; ngày 28/8 tim Bác loạn nhịp; ngày 29 và 30/, Bác ho nhiều và chuyển biến xấu; ngày 01/9 Bác tỉnh và Bộ Chính trị dự kiến mời Bác dự Lễ kỷ niệm Quốc khánh 15 phút theo nguyện vọng của Bác, nhưng ý nguyện của Người không thể thực hiện được. Tối 2/9 lúc 21h tôi dịch bức điện của Quân ủy Trung ương do Đại tướng Võ Nguyên Giáp ký, thông báo Bác mất hồi 9h47 ngày 2/9/1969. Khi nhận bức điện này, tướng Hoàng Minh Thảo đã xúc động tới mức ngất xỉu.

Thời điểm đánh Đắc Tô - Tân Cảnh năm 1972.

Tháng 4/1972 cùng với Quảng Trị và Xuân Lộc, Tây Nguyên mở chiến dịch Đắc Tô - Tân Cảnh, với mục tiêu để quân chủ lực của ta đánh chiếm và giải phóng ba thị xã Quảng Trị, Kon Tum, Xuân Lộc. Quân ủy Trung ương giao Bộ Tư lệnh B3 trong vòng 24 giờ phải giải phóng Đắc Tô - Tân Cảnh, làm bàn đạp đánh chiếm thị xã Kon Tum. Với lực lượng áp đảo, cùng binh khí kỹ thuật hiện đại (xe tăng T54, chống tăng B72 do Liên Xô giúp, chuyền vào qua đường 559 cùng với gạo, đạn) chỉ trong vòng 7 tiếng, từ 4h đến 11h sáng ngày 24/4/1972, quân ta đã hoàn toàn làm chủ. chiến trường, mở rộng vùng giải phóng. Tôi đã trực tiếp dịch bức điện “Dịch ngay” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi tướng Hoàng Minh Thảo, nguyên bản như sau: “Thay mặt Quân ủy Trung ương tôi gửi lời khen quân và dân Tây Nguyên đã đánh một trận hợp đồng binh chủng tuyệt đẹp, tốc độ chiến đấu nhanh, hiệu suất chiến đấu cao. Thời gian là lực lượng, thời gian là gạo đạn, tranh thủ thời cơ phát triển để giải phóng thị xã Kon Tum”. Nhưng do mùa mưa ập đến, việc cung ứng gaọ, đạn từ phía anh Đồng Sĩ Nguyên và cảng XihanucVin (Campuchia) rất khó khăn, mặc dù tướng Chu Huy Mân đã điều Sư đoàn 2 Nguyễn Chơn đóng ở Cấm Dơi, Quế Sơn, Quảng Nam lên tăng viện và ta đã chiếm được mặt đất thị xã Kon Tum buộc địch rút xuống boong ke hầm ngầm, nhưng chúng đánh bom rải thảm khiến mỗi ngày ta thương vong trên dưới 500 người. Trước tình hình đó, Đại tướng Võ Nguyên Giáp điện khẩn cho tướng Hoàng Minh Thảo: “Bằng mọi cách phải mở đường máu rút ra ngoài thị xã để bảo toàn lực lượng”.

Sau năm 1975, nhiều học giả khoa học quân sự trong đó có GS.Hoàng Minh Thảo nhận xét về chiến dịch Xuân Hè: “Ta tuy có đạt được một số mục tiêu lớn nhưng do khó khăn về binh khí kỹ thuật, hậu cần và lại găp thời tiết xấu (khí hậu Tây Nguyên, Quảng Trị “nắng hè khét đá, mưa lũ thối rừng”) nên bị tổn thất lớn về lực lượng, đặc biệt là “Thành cổ Quảng Trị”. Việc rút quân khỏi ba đô thị là cần thiết, mang tính chiến lược”.

 Hiệp định Pari (1968-1973)

Hội nghị Pari về Việt Nam nhóm họp từ ngày 13/5/1968, lúc đầu chỉ có đại diện của Việt Nam dân chủ cộng hòa và Hoa Kỳ, sau đó hình thành bốn bên: Việt Nam dân chủ cộng hòa, Mặt trận dân Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (sau đó là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ và Việt Nam cộng hòa (chính quyền Sài Gòn). Với bản chất xâm lược, hiếu chiến, Đế quốc Mỹ muốn kéo dài chiến tranh, nuôi dưỡng chế độ bù nhìn Nguyễn Văn Thiệu, thực hiện Việt Nam hóa chiến tranh nên trong quá trình đàm phán chúng dùng nhiều thủ đoạn lì lợm, tráo trở, lật lọng. Nhưng với nghệ thuật ngoai giao tài tình, khôn ngoan, cộng với tài năng, trí tuệ uyên thâm, cuộc đấu trí giữa Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và Kitxinhgiơ, chúng ta đã chiến thắng. Giai đoạn từ tháng 5/1968 đến tháng 6/1972 là những cuộc đàm phán mang tính chất thủ đoạn, đối phó kéo dài. Nhưng từ tháng 7/1972 khi cục diện về quân sự ở chiến trường miền Nam bất lợi cho quân đội Mỹ và Việt Nam cộng hòa, đối phương mới chịu ngồi vào bàn đàm phán. Từ tháng 10/1972, Quân ủy Trung ương bắt đầu có thông báo về tiến trình Hội nghị Pari. Qua 201 phiên họp công khai, 45 cuộc gặp riêng giữa Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và Kitxinhgiơ, với sức ép cuối cùng của Mỹ sau chiến dịch ném bom rải thảm B52 ở Hà Nội, Hải Phòng thất bại, chúng mới chịu chấp thuận cơ bản nội dung bản “Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam” do phía Việt Nam dự thảo. Đúng 12h30 ngày 23/01/1973 văn bản hiệp định được ký tắt giữa Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và Kitxinhgiơ. Ngày 27/1/1973, bản Hiệp định được ký chính thức giữa 4 Bộ trưởng Ngoại giao: Nguyễn Duy Trinh, Nguyễn Thị Bình, W.Rogers và Nguyễn Văn Lắm.

Thời điểm 06h sáng ngày 28/01/1973 ở Tây Nguyên, Ban Cơ yếu B3 cũng nhận đươc công điện khẩn, tôi là người đươc chỉ định dịch bức điện của Quân ủy Trung ương thông báo về thời khắc lịch sử  này. Tin vui nhanh chóng được lan truyền từ Ban Cơ yếu tới các phòng ban, đơn vị. Cả một vùng rừng núi bắc Kon Tum, nơi đại bản doanh của Bộ tư lệnh B3 đóng, mọi người ôm nhau òa vui, tràn đầy nước mắt, “sắp được ra Bắc rồi”, “sắp được về với thày u rồi”… cứ thế vang vọng khắp núi rừng Tây Nguyên, khắp miền Trung, miền Nam và cả nước. Chúng tôi ùa vào phòng Tư lệnh Hoàng Minh Thảo, ngắm nhìn khuôn mặt nhân từ, đôi mắt long lanh, sáng quắc, thấy lòng dâng lên niềm tự hào đối với vị tướng tài ba, lỗi lạc, một “thủ lĩnh rừng xanh” từng làm cho bọn giặc tử thủ trên “cao nguyên Trung phần” khiếp đảm. Và đúng như nhà thơ Tố Hữu viết “Khao khát trăm năm mãi đợi chờ/ Hôm nay vui đến ngỡ trong mơ…”. Thế mà lại đằng đẵng hai năm ba tháng hai ngày, niềm vui ấy mới trọn vẹn và phải đánh đổi bao nhiêu xương máu của đồng bào, đồng đội để có đươc ngày 30/4/1975 lịch sử - giang sơn thu về môt mối, Tổ quốc thống nhất để “Miền Nam đang thắng vui ngày hội/Rước Bác vào thăm thấy Bác cười”. Sau này tôi có hai lần gặp lại Thượng tướng Hoàng Minh Thảo, đó là năm 1990 (lúc này ông là Giáo sư, Viện trưởng Viện chiến lược quân sự Bộ Quốc phòng) trong một cuôc hộị thảo, được Thượng tướng mời ăn trưa. Lần thứ hai là lần cuối cùng tiễn đưa ông về với Bác Hồ ngày 11/8/2008 tại Nhà tang lễ Quốc gia.

 Sau Hiệp định Pari, tôi ra Bắc, tạm xa ngành Cơ yếu và vinh dự đươc bổ sung sang lực lượng chiến đấu của Quân đoàn 1 (Binh đoàn Quyết thắng), kịp thời có mặt vào đúng ngày thành lập Quân đoàn, ngày 24/10/1973. Quân đoàn 1 là quân đoàn chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam gồm các sư đoàn tinh nhuệ, thiện chiến: F308, F312, F320, F367, Lữ đoàn xe tăng 202, Lữ pháo binh 45, Lữ  Công binh 299 và E140 Thông tin, đại bản doanh đóng tại thị xã Tam Điêp, Ninh Bình. Là cán bộ chính trị, đươc đứng trong đội hình binh chủng hợp thành, tôi cùng đồng đội lần thứ hai Nam tiến. Ngày 15/3/1975 Quân đoàn 1 được lệnh lên đường (Trừ F308 ở lại Yên Khánh, Ninh Bình bảo vệ hậu phương). Sau 12 ngày đêm hành quân thần tốc, các đơn vị thuộc Quân đoàn đã tập kết tại Đồng Xoài (Quân đoàn 1 là cánh quân phía Bắc có nhiệm vụ chọc thủng tuyến phòng thủ bắc Sài Gòn - Một chiến tuyến sinh tử của cả hai phía. Khi các sư đoàn của Quân đoàn 1 đến ngầm Sông Bé, gặp sức đề kháng quyết liệt của quân Ngụy Sài Gòn, cuộc giao tranh ác liệt, kéo dài, đồng đội của tôi hy sinh nhiều trong đó có người bạn thân cùng quê Nam Định - Anh hùng Lực lượng vũ trang, chiến sĩ lái xe tăng Hoàng Thọ Mạc). Đúng 10h30 sáng 30/4/1975 các đơn vị của Quân đoàn (F320B, F312) đã chiếm Bộ Tổng Tham mưu và trụ sở Bộ Quốc phòng của quân Ngụy Sài Gòn, phối hợp cùng các cánh quân của Quân đoàn 2, Quân đoàn 3, Quân đoàn 4 đâp tan sào huyêt cuối cùng của chế độ Ngụy quyền Sài Gòn, góp phần làm nên Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

 Cơ yếu là một ngành cơ mật đặc biệt, truyền thống của Ngành là những trang sử vàng, trong đó có sự hy sinh thầm lặng của cán bộ, chiến sĩ cơ yếu qua các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và sự nghiêp bảo vệ bảo vệ Tổ quốc. Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, thế hệ chúng tôi chịu nhiều gian khổ, hy sinh và rất thiệt thòi, nhưng luôn kiên định, trung thành và tận tụy, bằng ý chí và trí tuệ để chuyển tải mệnh lệnh của Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang. Tôi tin rằng, thế hệ cán bộ, nhân viên cơ yếu ngày nay với sức trẻ, nhiệt huyết với thiết bị công nghệ cao chắc chắn sẽ có nhiều cống hiến, đóng góp hơn nữa, giúp cho ngành Cơ yếu có thêm nhiều thành tựu và chiến công.

Để lại bình luận