|

Những nội dung chính trong quản lý nhà nước về cơ yếu

18:45 | 18/02/2025
Đỗ Thục Anh (Phó Tổng biên tập/Tạp chí An toàn thông tin)

CYVN - Hoạt động cơ yếu là hoạt động cơ mật đặc biệt, thuộc lĩnh vực an ninh quốc gia. Chính vì vậy, quản lý nhà nước về cơ yếu cũng là một dạng quản lý nhà nước thuộc chuyên ngành đặc biệt. Nếu nhìn nhận quản lý nhà nước nói chung là hoạt động thực thi quyền lực nhà nước, do các cơ quan nhà nước tiến hành, nhằm thúc đẩy xã hội phát triển theo một định hướng thống nhất, thì quản lý nhà nước về cơ yếu, nói một cách tương đồng và chuyên biệt, cũng là hoạt động thực thi quyền lực nhà nước, nhưng do cơ quan nhà nước chuyên ngành về cơ yếu và các tổ chức được ủy quyền tiến hành, nhằm đáp ứng yêu cầu bảo mật, an toàn thông tin (ATTT) trong lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, chỉ huy của Đảng, Nhà nước và lực lượng vũ trang nhân dân trong mọi tình huống quân sự, dân sự, đối nội và đối ngoại.

Mục tiêu của quản lý nhà nước về cơ yếu là bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước; đồng thời phát huy vai trò, trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành về cơ yếu, nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, hướng tới xây dựng ngành Cơ yếu Việt Nam cách mạng, chính quy, tiến thẳng lên hiện đại.

Nội dung trọng tâm quản lý nhà nước về Cơ yếu

Các nội dung quản lý nhà nước về cơ yếu được quy định trong nhiều văn bản pháp luật liên quan. Đầu tiên và có vị trí trung tâm nhất phải kể đến Luật Cơ yếu được Quốc hội thông qua ngày 26/11/2011 và các nghị định do Chính phủ ban hành quy định chi tiết một số điều của Luật Cơ yếu, như Nghị định số 32/2013/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Cơ yếu về chế độ, chính sách đối với người làm công tác cơ yếu; Nghị định số 09/2014/NĐ- CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ban Cơ yếu Chính phủ; Nghị định số 58/2016/NĐ-CP quy định chi tiết về kinh doanh sản phẩm, dịch vụ mật mã dân sự (MMDS) và xuất khẩu, nhập khẩu sản phẩm MMDS (được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 32/2023/NĐ- CP); Nghị định số 02/2023/NĐ-CP quy định về ngạch, chức danh người làm việc trong tổ chức cơ yếu; Nghị định số 01/2024/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Cơ yếu về hoạt động mật mã để bảo vệ thông tin bí mật nhà nước; Nghị định số 03/2024/NĐ-CP quy định về tổ chức, quản lý người làm việc trong tổ chức cơ yếu… Đặc biệt, Nghị quyết số 56-NQ/ TW ngày 05/3/2020 của Bộ Chính trị ban hành Chiến lược phát triển ngành Cơ yếu Việt Nam đến năm 2030 và định hướng đến năm 2045 xác định rõ: “phải có chủ trương, giải pháp đột phá nhằm bảo đảm tuyệt đối bí mật thông tin lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước. Xây dựng ngành Cơ yếu Việt Nam cách mạng, chính quy, tiến thẳng lên hiện đại là giải pháp then chốt, quyết định. Đây là nhiệm vụ cơ bản, cấp thiết, là trách nhiệm của toàn Đảng và cả hệ thống chính trị, trong đó, lực lượng cơ yếu giữ vai trò nòng cốt”.

Ngoài ra, các nội dung quản lý nhà nước về cơ yếu cũng được quy định tại một số luật và nghị định quan trọng khác, như: Luật Tổ chức Chính phủ 2015, Luật ATTT mạng 2015, Luật An ninh mạng 2018, Luật Bảo vệ bí mật nhà nước 2018, Luật Xuất cảnh nhập cảnh của công dân Việt Nam 2019, Luật Thanh tra 2022, Luật Viễn thông 2023, Luật Giao dịch điện tử 2023…

Tất cả quy định trong các văn bản nêu trên chính là căn cứ pháp lý để cơ quan mật mã quốc gia - ở đây là Ban Cơ yếu Chính phủ và các tổ chức được nhà nước ủy quyền - thực thi quyền lực nhà nước nhằm đạt tới những mục tiêu quản lý của mình. Thông qua hệ thống các văn bản như vậy, chúng ta có thể tóm lược những nội dung trọng tâm của quản lý nhà nước về cơ yếu ở các lĩnh vực sau đây:

1. Quản lý nhà nước về hoạt động mật mã để bảo vệ thông tin bí mật nhà nước

Hoạt động mật mã để bảo vệ thông tin bí mật nhà nước phải tuân thủ các quy trình nghiệp vụ để bảo đảm yêu cầu quản lý chặt chẽ, nghiêm ngặt. Các nguyên tắc cơ bản để thực hiện các nội dung quản lý nhà nước về hoạt động mật mã để bảo vệ thông tin bí mật nhà nước gồm: (i) Nhà nước thống nhất quản lý và tổ chức hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ mật mã để bảo vệ thông tin bí mật nhà nước; (ii) Nhà nước độc quyền sản xuất và cung cấp sản phẩm mật mã (SPMM) để bảo vệ thông tin bí mật nhà nước; (iii) Triển khai SPMM, xây dựng mạng liên lạc cơ yếu, quản lý sử dụng SPMM phải bảo đảm tính thống nhất, chặt chẽ, nghiêm ngặt trên cơ sở xác định nhiệm vụ của hai chủ thể tham gia là cơ quan và người làm cơ yếu với cơ quan và người sử dụng cơ yếu.

Trong đó, Nhà nước thống nhất quản lý và tổ chức hoạt động khoa học và công nghệ mật mã, chuyển giao công nghệ mật mã để bảo vệ thông tin bí mật nhà nước. Ban Cơ yếu Chính phủ có trách nhiệm quản lý và tổ chức thực hiện việc chuyển giao công nghệ phục vụ hoạt động nghiên cứu, sản xuất SPMM để bảo vệ thông tin bí mật nhà nước; quản lý, sử dụng các cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật, phương tiện được giao đúng mục đích, đúng tiêu chuẩn chế độ, bảo đảm hiệu quả sử dụng cao, an toàn, bí mật theo quy định của pháp luật.

Chính phủ quy định việc xây dựng, thẩm định, ban hành quy chuẩn kỹ thuật đối với SPMM; quy định việc quản lý hoạt động kiểm định, đánh giá SPMM để bảo vệ thông tin bí mật nhà nước. Ban Cơ yếu Chính phủ xây dựng dự thảo tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật trong lĩnh vực mật mã, chịu trách nhiệm quản lý và tổ chức kiểm định, đánh giá sự phù hợp quy chuẩn của SPMM.

Nhà nước độc quyền sản xuất, cung cấp các loại SPMM cho các cơ quan, tổ chức để bảo vệ thông tin bí mật nhà nước, có chính sách ưu tiên nhập khẩu trang thiết bị, công nghệ phục vụ hoạt động nghiên cứu, sản xuất SPMM để bảo vệ thông tin bí mật nhà nước. Ban Cơ yếu Chính phủ xây dựng kế hoạch, tổ chức sản xuất, cung cấp SPMM và trực tiếp quản lý các cơ sở sản xuất mật mã để bảo vệ thông tin bí mật nhà nước.

Điều 9 Luật Cơ yếu quy định:

“1. Thông tin bí mật nhà nước được truyền bằng các phương tiện thông tin, viễn thông phải được mã hóa bằng mật mã của cơ yếu.

2. Thông tin bí mật nhà nước lưu giữ trong các phương tiện thiết bị điện tử, tin học và trên mạng viễn thông được mã hóa bằng mật mã của cơ yếu”.

Các loại thông tin bí mật nhà nước là thông tin thuộc độ mật “Tuyệt mật”, “Tối mật” và “Mật” được quy định tại Luật Bảo vệ bí mật nhà nước và được quy định cụ thể tại các Quyết định ban hành danh mục bí mật nhà nước trong các lĩnh vực của Thủ tướng Chính phủ.

Từ đó, Ban Cơ yếu Chính phủ thống nhất quản lý các loại SPMM và có trách nhiệm thẩm định, đánh giá chất lượng, độ mật các loại kỹ thuật mật mã, SPMM trước khi đưa vào triển khai sử dụng. Đồng thời có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, kịp thời, theo kế hoạch các loại SPMM cho các hệ thống tổ chức cơ yếu.

Việc triển khai, giải thể mạng liên lạc cơ yếu được quy định tại Điều 17 Luật Cơ yếu, xác định:

1. Mạng liên lạc cơ yếu được triển khai khi có nhu cầu bảo vệ thông tin bí mật nhà nước bằng mật mã; có điều kiện về nhân lực, kỹ thuật và bảo đảm an ninh, an toàn.

2. Việc triển khai, giải thể mạng liên lạc cơ yếu do người đứng đầu cơ quan, tổ chức sử dụng cơ yếu có thẩm quyền quyết định sau khi có sự thống nhất về chuyên môn, nghiệp vụ bằng văn bản của Ban Cơ yếu Chính phủ.

3. Trường hợp cấp thiết cần triển khai, giải thể mạng liên lạc cơ yếu, người đứng đầu cơ quan, tổ chức sử dụng cơ yếu có thẩm quyền quyết định và kịp thời thông báo bằng văn bản cho Ban Cơ yếu Chính phủ…”. Điều 49 Nghị định số 01/2024/NĐ-CP cũng quy định cụ thể điều kiện để triển khai mạng liên lạc cơ yếu.

2. Quản lý nhà nước về chứng thực chữ ký số chuyên dùng công vụ

Luật Giao dịch điện tử (sửa đổi) khẳng định Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thực hiện quản lý nhà nước về giao dịch điện tử trong lĩnh vực cơ yếu, chữ ký số chuyên dùng công vụ trên cơ sở tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chữ ký số theo quy định của pháp luật.

Trên cơ sở chủ trương của Đảng và nhiệm vụ được giao, Ban Cơ yếu Chính phủ giúp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thống nhất quản lý, triển khai hệ thống chứng thực chữ ký số chuyên dùng Chính phủ phục vụ các cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội; tổ chức triển khai đồng bộ các giải pháp về cơ cấu tổ chức; xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật; thiết lập, vận hành, phát triển hạ tầng kỹ thuật; nghiên cứu, phát triển khoa học - công nghệ; bảo đảm cung cấp dịch vụ, hỗ trợ kỹ thuật và kiểm tra, đánh giá tình hình ứng dụng chữ ký số chuyên dùng Chính phủ trên phạm vi toàn quốc.

Đồng thời phải thường xuyên rà soát, nghiên cứu, đề xuất cấp thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật, văn bản quản lý về chữ ký số chuyên dùng công vụ, tạo cơ sở pháp lý thống nhất, thuận lợi để quản lý, cung cấp, sử dụng chữ ký số, chứng thư chữ ký số, dịch vụ chứng thực chữ ký số chuyên dùng công vụ; giúp nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về cơ yếu; góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về giao dịch điện tử; bảo đảm xác thực, ATTT trong việc ứng dụng chữ ký số chuyên dùng công vụ trong các hoạt động quản lý, chỉ đạo, điều hành và tác nghiệp.

Điều 24 Luật Giao dịch điện tử quy định về dịch vụ chứng thực chữ ký số chuyên dùng công vụ và Điều 50 quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về giao dịch điện tử, xác định: “Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thực hiện quản lý nhà nước về giao dịch điện tử trong lĩnh vực cơ yếu, chữ ký số chuyên dùng công vụ trên cơ sở tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chữ ký số theo quy định của pháp luật”.

Trên cơ sở đó, ngày 25/6/2024, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 68/2024/NĐ-CP quy định về chữ ký số chuyên dùng công vụ, trong đó nêu rõ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng có trách nhiệm chỉ đạo Ban Cơ yếu Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về chữ ký số chuyên dùng công vụ, cụ thể: Xây dựng, đề xuất chủ trương, tổ chức thực hiện chiến lược, kế hoạch và chính sách phát triển dịch vụ chứng thực chữ ký số chuyên dùng công vụ; Chủ trì xây dựng và trình cấp có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về chữ ký số chuyên dùng công vụ; tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, yêu cầu kỹ thuật, định mức kinh tế kỹ thuật, chất lượng sản phẩm, dịch vụ trong hoạt động cung cấp, quản lý, sử dụng chữ ký số chuyên dùng công vụ, chứng thư chữ ký số chuyên dùng công vụ và dịch vụ chứng thực chữ ký số chuyên dùng công vụ theo quy định của pháp luật; Quản lý công tác báo cáo, thống kê tình hình cung cấp, quản lý, sử dụng dịch vụ chứng thực chữ ký số chuyên dùng công vụ; quản lý việc giám sát an ninh, an toàn các hệ thống thông tin phục vụ cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số chuyên dùng công vụ; sơ kết, tổng kết đánh giá kết quả thực hiện; Quản lý dịch vụ cấp dấu thời gian của chữ ký số chuyên dùng công vụ; Quản lý, tổ chức việc xây dựng, khai thác và phát triển hạ tầng chứng thực chữ ký số chuyên dùng công vụ; việc phát hành, thu hồi chứng thư chữ ký số chuyên dùng công vụ; Tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về chữ ký số chuyên dùng công vụ; Quản lý công tác đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực, chuyên gia trong lĩnh vực chữ ký số chuyên dùng công vụ; Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm về chữ ký số chuyên dùng công vụ theo quy định của pháp luật; Hợp tác quốc tế về chữ ký số chuyên dùng công vụ.

Bên cạnh đó, phải thiết lập hạ tầng kỹ thuật đồng bộ, hiện đại, được kiểm soát chặt chẽ, làm chủ mật mã đảm bảo an toàn nghiêm ngặt đáp ứng các yêu cầu cao về an toàn và bảo mật thông tin; bảo đảm cung cấp kịp thời đáp ứng 100% yêu cầu của các cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị sự nghiệp công lập, nhằm ứng dụng hiệu quả trong thực tế, tiết kiệm thời gian, chi phí, nâng cao hiệu quả công việc, đáp ứng yêu cầu cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số để đơn giản hóa thủ tục hành chính về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số chuyên dùng công vụ; tăng tính công khai, minh bạch, góp phần tích cực trong cải cách hành chính, phát triển Chính phủ điện tử, tiến tới Chính phủ số.

3. Quản lý nhà nước về MMDS

Mật mã (với các chức năng bảo mật, xác thực, toàn vẹn, chống chối bỏ) có vai trò quan trọng trong đảm bảo an toàn, an ninh cho hạ tầng công nghệ thông tin. Đây là một yếu tố có tính quyết định tới hiệu quả phát triển ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đặc biệt trong Cách mạng công nghiệp 4.0 mà trọng tâm là các nhiệm vụ xây dựng Chính phủ điện tử nhằm hướng tới một nền kinh tế số, xã hội số.

Để hoạt động quản lý nghiên cứu, sản xuất, kinh doanh và sử dụng mật mã ngày càng đạt hiệu quả cao, đáp ứng, phù hợp với xu thế thời đại, khi Việt Nam chủ động tham gia hội nhập vào khu vực và quốc tế, quản lý nhà nước về mật mã cần tiếp tục được tăng cường, đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất nhằm đảm bảo an ninh, lợi ích quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Hoạt động MMDS góp phần chống lại sự tấn công, phá hoại của các thế lực thù địch phản động lợi dụng môi trường mạng tuyên truyền, kích động, gây rối làm mất ổn định về chính trị, kinh tế.

Ngày 19/11/2015, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật ATTT mạng. Trong đó, Khoản 4 Điều 53 quy định, Ban Cơ yếu Chính phủ giúp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thực hiện quản lý nhà nước về MMDS, có nhiệm vụ xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật về quản lý MMDS; Chủ trì, phối hợp với Bộ, ngành có liên quan xây dựng, trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành tiêu chuẩn quốc gia, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với sản phẩm, dịch vụ MMDS; Quản lý hoạt động kinh doanh, sử dụng MMDS; Quản lý chất lượng sản phẩm, dịch vụ MMDS; Quản lý công tác đánh giá, công bố hợp chuẩn, hợp quy đối với sản phẩm, dịch vụ MMDS; Xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành Danh mục sản phẩm, dịch vụ MMDS và Danh mục sản phẩm MMDS xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép; Cấp Giấy phép kinh doanh sản phẩm, dịch vụ MMDS, Giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu sản phẩm MMDS; Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động kinh doanh, sử dụng MMDS; Hợp tác quốc tế về MMDS.

Đặc biệt, thời gian qua, nhiệm vụ hợp tác quốc tế về MMDS được mở rộng hợp tác với các quốc gia là đối tác truyền thống, tin cậy, đối tác hợp tác toàn diện, các nước có nền khoa học - công nghệ tiên tiến. Chú trọng hợp tác trong lĩnh vực đánh giá sự phù hợp, kiểm định chất lượng SPMM.

Cục Quản lý MMDS và Kiểm định SPMM là tổ chức trực thuộc Ban Cơ yếu Chính phủ có chức năng tham mưu, giúp Trưởng ban Ban Cơ yếu Chính phủ thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về hoạt động nghiên cứu, sản xuất, kinh doanh và sử dụng MMDS; tổ chức thực hiện hoạt động kiểm định, đánh giá SPMM.

4. Quản lý nhà nước về hoạt động giám sát ATTT trên các mạng công nghệ thông tin trọng yếu của Đảng, Nhà nước

Trên không gian mạng, Việt Nam có nhiều hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia, trong đó có hệ thống thông tin quân sự, an ninh, ngoại giao, cơ yếu. Nghị quyết số 51-NQ/TW ngày 05/9/2019 của Bộ Chính trị về Chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia đã xác định cần phải tăng cường bảo vệ an toàn, an ninh mạng các hệ thống thông tin quan trọng quốc gia và các hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia; phòng ngừa, phát hiện và đấu tranh ngăn chặn các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia trên không gian mạng; khắc phục điểm yếu, lỗ hổng bảo mật, nguy cơ mất an toàn an ninh mạng, an ninh thông tin… Ngoài ra còn có nhiều cơ sở pháp lý được ban hành, như: Luật An ninh mạng, Luật ATTT, Luật Bảo vệ bí mật nhà nước.

Về nhiệm vụ cụ thể, cần phải xây dựng và phát triển hệ thống thông tin mật mã quốc gia, hệ thống chứng thực chữ ký số chuyên dùng, hệ thống giám sát ATTT trên các mạng công nghệ thông tin trọng yếu của các cơ quan Đảng, Nhà nước; quản lý quy củ hoạt động nghiên cứu, sản xuất, kinh doanh và sử dụng sản phẩm, dịch vụ mật mã.

Ban Cơ yếu Chính phủ là cơ quan được giao chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan triển khai hệ thống bảo mật, ATTT dùng mật mã; chủ trì xây dựng và đề xuất ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về cơ yếu; thực hiện quản lý các hoạt động nghiên cứu, sản xuất, kinh doanh, sử dụng mật mã bảo đảm ATTT mạng theo quy định; hoàn thiện và hiện đại hóa hạ tầng cơ sở mật mã quốc gia… Tăng cường quản lý đối với các sản phẩm, dịch vụ MMDS, hoạt động nghiên cứu sử dụng mật mã để bảo đảm ATTT trên không gian mạng theo quy định.

Khoản 5 Điều 27 Luật ATTT mạng quy định: Ban Cơ yếu Chính phủ chủ trì tổ chức triển khai giải pháp dùng mật mã để bảo vệ thông tin trong hệ thống thông tin quan trọng quốc gia trong việc giám sát ATTT mạng theo quy định của pháp luật.

Trung tâm Công nghệ thông tin và Giám sát an ninh mạng là tổ chức sự nghiệp thuộc Ban Cơ yếu Chính phủ có chức năng giúp Trưởng ban Ban Cơ yếu Chính phủ thực hiện nhiệm vụ giám sát các mạng thông tin trọng yếu của Đảng, Nhà nước; ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của Ban Cơ yếu Chính phủ.

5. Quản lý nhà nước về lực lượng cơ yếu

Lực lượng cơ yếu là lực lượng chuyên trách bảo vệ bí mật nhà nước, có chức năng tham mưu cho Đảng, Nhà nước về công tác cơ yếu, thực hiện hoạt động cơ yếu; góp phần bảo đảm tuyệt đối an toàn, chính xác, bí mật, kịp thời thông tin phục vụ sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, chỉ đạo, chỉ huy của lực lượng vũ trang trong mọi tình huống; chủ động phòng ngừa, tham gia đấu tranh với các hoạt động thám mã gây phương hại đến an ninh quốc gia, lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Đây là nội dung đã được quy định tại Điều 20 Luật Cơ yếu.

Tổ chức của lực lượng cơ yếu bao gồm: Ban Cơ yếu Chính phủ và cơ yếu các Bộ, ngành là đầu mối độc lập đặt dưới sự lãnh đạo của cơ quan có thẩm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự lãnh đạo của người đứng đầu cơ quan, tổ chức sử dụng cơ yếu và sự quản lý về chuyên môn nghiệp vụ của tổ chức cơ yếu cấp trên, bao gồm: Hệ thống tổ chức cơ yếu Quân đội nhân dân; Hệ thống tổ chức cơ yếu Công an nhân dân; Hệ thống tổ chức cơ yếu Ngoại giao; Hệ thống tổ chức cơ yếu trong cơ quan Đảng, cơ quan khác của Nhà nước ở trung ương và địa phương.

Chính phủ quy định việc thành lập, giải thể các tổ chức cơ yếu và cơ cấu tổ chức của Ban Cơ yếu Chính phủ. Ban Cơ yếu Chính phủ là cơ quan mật mã quốc gia, quản lý chuyên ngành về cơ yếu, có trách nhiệm giúp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng tham mưu cho Đảng, Nhà nước về công tác cơ yếu, thực hiện quản lý nhà nước về cơ yếu trong phạm vi cả nước. Việc thực hiện quản lý nhà nước về lực lượng cơ yếu có nghĩa là quản lý về tổ chức của lực lượng cơ yếu; quản lý về người làm việc trong tổ chức cơ yếu; quản lý về chế độ, chính sách đối với người làm việc trong tổ chức cơ yếu.

6. Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về cơ yếu

Thanh tra Cơ yếu là cơ quan thuộc Ban Cơ yếu Chính phủ giúp Trưởng ban Ban Cơ yếu Chính phủ quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, tiếp công dân và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý của Trưởng ban Ban Cơ yếu Chính phủ; thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về mật mã để bảo vệ thông tin bí mật nhà nước, chữ ký số chuyên dùng công vụ, MMDS, bảm đảm không chồng chéo chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan khác có chức năng thanh tra chuyên ngành Cơ yếu; thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực theo quy định của pháp luật.

Thanh tra Cơ yếu chịu sự chỉ đạo, điều hành của Trưởng ban Ban Cơ yếu Chính phủ và chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về công tác thanh tra của Thanh tra Chính phủ.

Những nội dung này đã được quy định chi tiết tại Nghị định số 03/2024/NĐ-CP của Chính phủ quy định về cơ quan thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành và hoạt động của cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành.

Cũng theo quy định của Luật Thanh tra và Nghị định số 43/2023/NĐ-CP ngày 30/6/2023 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Thanh tra, Thanh tra chuyên ngành cơ yếu có thẩm quyền xử phạt. Bên cạnh đó, còn quy định thẩm quyền lập biên bản xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực cơ yếu như vi phạm quy định về quản lý, sử dụng SPMM để bảo vệ thông tin thuộc phạm vi bí mật nhà nước; vi phạm quy định về bảo vệ thông tin bí mật nhà nước khi truyền đưa bằng phương tiện thông tin, viễn thông hoặc lưu giữ trên các thiết bị điện tử, tin học và trên mạng viễn thông mà không được mã hóa bằng mật mã của cơ yếu.

Lời kết

Có thể thấy, quản lý nhà nước luôn là hoạt động quan trọng của bất cứ quốc gia nào. Khi nhiệm vụ quản lý nhà nước được thực hiện tốt, quốc gia sẽ phát triển lành mạnh, đúng định hướng, kế hoạch và có tích lũy tốt để hướng đến một thời điểm nào đó “lượng đủ, chất đổi”, phát triển nhảy vọt. Quản lý nhà nước đối với một chuyên ngành cũng cần sự tích lũy như vậy. Đặc biệt, quản lý nhà nước đối với một chuyên ngành đặc biệt như cơ yếu, cơ mật càng đòi hỏi sự tích lũy kỷ luật, bền bỉ, sáng tạo.

Song để có được kết quả tích lũy tốt thì tất cả các thành viên, thành phần tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước đều phải hiểu được quản lý nhà nước là gì và những nội dung cơ bản của nó như thế nào. Việc đưa ra cái nhìn khái quát về những góc cạnh của quản lý nhà nước về cơ yếu là để giúp chúng ta ngày càng thống nhất được nhận thức, ý chí và hành động. Đây cũng chính là một bước chân đóng góp cho hành trình tất yếu của ngành Cơ yếu Việt Nam cách mạng, chính quy, tiến thẳng lên hiện đại.

Để lại bình luận