Lịch sử về sự thay đổi QHSX để phù hợp với LLSX ở Việt Nam
Giai đoạn sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1954: Sự kiện Cách mạng tháng Tám mở ra một thời kỳ cách mạng mới, từ xã hội phong kiến và thuộc địa chuyển sang chủ nghĩa xã hội. Đây là quá trình đấu tranh giai cấp nhằm thay đổi chế độ sở hữu tư liệu sản xuất, xóa bỏ chế độ tư hữu phong kiến để hình thành nền kinh tế tập trung vào lợi ích của giai cấp công nông. Chính sách “người cày có ruộng” đã hiện thực hóa QHSX mới, trong đó đất đai trở thành tài sản chung của nông dân, xóa bỏ chế độ phong kiến, hướng tới việc thúc đẩy sự phát triển của LLSX, từ đó thay đổi QHSX, “tạo tiền đề xây dựng phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa”.
Giai đoạn 1954-1975: Đất nước ta tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược là Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và Cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam. Miền Bắc tiến hành xây dựng và củng cố nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, dựa trên ba trụ cột chính: công hữu về tư liệu sản xuất, quản lý kế hoạch hóa tập trung và phân phối theo lao động. Trong nông nghiệp, ở miền Bắc đẩy mạnh phong trào hợp tác hóa, thiết lập các hợp tác xã nông nghiệp trên quy mô rộng, đưa đất đai và phương tiện sản xuất vào hình thức sở hữu tập thể, khuyến khích người dân tham gia lao động chung. Trong công nghiệp, các nhà máy và xí nghiệp quốc doanh cũng hoạt động theo mô hình công hữu và sản xuất tập trung, với sản phẩm phân phối dựa trên lao động, phục vụ nhu cầu thiết yếu của xã hội. Cách quản lý và tổ chức sản xuất này không chỉ phù hợp với mục tiêu xây dựng xã hội chủ nghĩa mà còn là cơ sở cho việc phát triển LLSX trong bối cảnh thiếu thốn tài nguyên và phải tự chủ kinh tế.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, để thúc đẩy sản xuất, QHSX phải phản ánh trình độ phát triển của LLSX. Việc thiết lập chế độ công hữu giúp tập trung các tư liệu sản xuất quan trọng vào tay nhà nước và hợp tác xã, đặc biệt là trong các lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp, từ đó nâng cao năng suất lao động và phát triển LLSX, hay nói cách khác là thay đổi QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX. Từ đó “củng cố và hoàn thiện QHSX mới dựa trên ba trụ cột: chế độ công hữu, quản lý kế hoạch hóa tập trung và phân phối theo lao động, đã đưa LLSX phát triển vượt bậc”.
Giai đoạn 1975-1986: Đây là thời kỳ đầy thử thách khi Việt Nam thống nhất đất nước và bắt đầu công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên quy mô cả nước. Với tinh thần kiên định, Đại hội IV của Đảng năm 1976 đã đề ra đường lối xây dựng xã hội chủ nghĩa, xác định rõ tình trạng lúc bấy giờ của đất nước: từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ, đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đường lối của Đảng giai đoạn này tập trung vào việc phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, giữ vững chuyên chính vô sản và tiến hành ba cuộc cách mạng đồng thời: QHSX; khoa học - kỹ thuật và tư tưởng văn hóa. Trong đó, cách mạng khoa học - kỹ thuật được xác định là then chốt, còn công nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm. Tuy nhiên, các chính sách được áp dụng trong thực tế còn nhiều điểm chưa đồng bộ với mức độ phát triển của LLSX (hay nói cách khác là QHSX chưa phù hợp với trình độ của LLSX).
Chính sách xây dựng các doanh nghiệp quốc doanh và hợp tác xã để kiểm soát nền kinh tế và quốc hữu hóa ở miền Nam gặp nhiều khó khăn. Việc quản lý tập trung và bao cấp làm kìm hãm năng suất và dẫn đến tình trạng trì trệ, do đó QHSX không đồng bộ với LLSX. Từ năm 1979, khủng hoảng kinh tế trở nên nghiêm trọng hơn, xuất phát từ sự chênh lệch giữa QHSX và trình độ phát triển của LLSX. Đến Đại hội VI của Đảng năm 1986, Đảng xác định đổi mới toàn diện, với trọng tâm là cải cách kinh tế, xóa bỏ bao cấp và mở rộng các thành phần kinh tế, hướng đến nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Điểm nhấn về bước đột phá trong điều chỉnh QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX
Một bước tiến quan trọng trong việc điều chỉnh QHSX phù hợp với LLSX diễn ra vào năm 1988, khi Nghị quyết số 10-NQ/TW ra đời, chính thức thừa nhận hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ, cho phép nông dân được quyền sử dụng đất lâu dài. Đây là một quyết định mang tính đột phá, phù hợp với yêu cầu phát triển của LLSX nông nghiệp và giúp tháo gỡ những khó khăn trong sản xuất nông nghiệp của đất nước mà cơ chế tập trung, bao cấp đã vấp phải.
Ngay sau khi triển khai Nghị quyết số 10- NQ/TW, nước ta từ một quốc gia thiếu lương thực đã vươn lên sản xuất đủ 21,5 triệu tấn lúa và lần đầu tiên có khả năng xuất khẩu 1,2 triệu tấn gạo vào năm 1989. Việc thay đổi QHSX phù hợp đã tạo ra động lực mạnh mẽ, giải phóng sức sản xuất của lực lượng nông dân và đưa nền nông nghiệp Việt Nam phát triển vượt bậc. “Việc điều chỉnh QHSX phù hợp đã tạo động lực mới cho LLSX phát triển, đưa đất nước vượt qua khủng hoảng, bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện và hội nhập quốc tế”.
Giai đoạn 1986-2001, Việt Nam chuyển từ nền kinh tế tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới QHSX với việc khuyến khích mọi thành phần kinh tế, nhất là kinh tế tư nhân và đầu tư nước ngoài (FDI) đã giúp tạo điều kiện cho LLSX phát triển mạnh mẽ, thu hút vốn đầu tư, thúc đẩy xuất khẩu và nâng cao đời sống nhân dân.
Trước đổi mới, Việt Nam gặp nhiều khó khăn về kinh tế do mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung đã không còn phù hợp với trình độ phát triển và nhu cầu của LLSX. Khi LLSX phát triển đến một mức độ nhất định, mâu thuẫn với QHSX cũ trở nên rõ ràng, đòi hỏi sự thay đổi để giải phóng và thúc đẩy LLSX phát triển.
Với tư duy biện chứng, Đảng nhận ra cần phải cải cách QHSX để phù hợp hơn với sự phát triển của LLSX trong bối cảnh mới. Điều này dẫn đến chính sách đổi mới, thay đổi nhiều khía cạnh của QHSX: cho phép các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và kinh tế tư nhân phát triển, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, điều chỉnh cơ chế quản lý nhà nước theo hướng thị trường.
Những điều chỉnh này đã tạo điều kiện thuận lợi để LLSX được giải phóng và phát triển mạnh mẽ, góp phần cải thiện đời sống nhân dân, thu hút đầu tư nước ngoài và thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh chóng. Sự thay đổi này còn giúp giảm mâu thuẫn giai cấp trong xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và hướng tới mục tiêu công bằng xã hội, phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa.
Có thể nói, giai đoạn 1986-2001 cho thấy một ví dụ điển hình về việc thay đổi QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX, từ đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội trên nền tảng của chủ nghĩa xã hội.
Thời điểm chín muồi để đất nước ta thay đổi QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX khi bước vào kỷ nguyên mới
Hiện nay, LLSX có sự chuyển đổi mạnh mẽ, dựa vào công nghệ và dữ liệu để tối ưu hóa, đổi mới các quy trình sản xuất, chuỗi cung ứng và dịch vụ. Điểm nổi bật là vai trò của công nghệ số và dữ liệu tạo ra sự thay đổi cả về quy mô, tốc độ lẫn cách thức hoạt động của LLSX.
Công nghệ số là yếu tố cốt lõi, với sự hiện diện của các công nghệ hiện đại như trí tuệ nhân tạo (AI), chuỗi khối (Blockchain), Internet vạn vật (IoT), điện toán đám mây và phân tích dữ liệu lớn (Big Data). Các công nghệ này không chỉ giúp tự động hóa quy trình, tăng hiệu quả sản xuất, mà còn cho phép doanh nghiệp nắm bắt nhu cầu khách hàng và xu hướng thị trường một cách chính xác và nhanh chóng hơn.
Dữ liệu đóng vai trò như nguồn tài nguyên chính, thường được ví như “dầu mỏ mới” trong kỷ nguyên số. Các doanh nghiệp có khả năng thu thập, phân tích và xử lý dữ liệu hiệu quả sẽ có lợi thế lớn trong việc nắm bắt nhu cầu khách hàng, tối ưu hóa chuỗi cung ứng và nâng cao trải nghiệm người dùng. Dữ liệu được thu thập từ nhiều nguồn, bao gồm các tương tác số, thiết bị IoT và hành vi người dùng trực tuyến. Việc sử dụng dữ liệu một cách thông minh giúp tạo ra các sản phẩm và dịch vụ được cá nhân hóa, từ đó doanh nghiệp “hiểu” khách hàng, nâng cao sự hài lòng và lòng trung thành của khách hàng.
Nền tảng số (như thương mại điện tử, nền tảng tài chính số và mạng xã hội) đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối các yếu tố của LLSX. Các nền tảng này không chỉ giúp doanh nghiệp tiếp cận và tương tác trực tiếp với khách hàng, mà còn tạo ra cơ hội hợp tác, chia sẻ nguồn lực giữa các bên. Việc xây dựng hệ sinh thái số trên các nền tảng này cũng thúc đẩy sự phát triển của các mô hình kinh doanh mới như kinh tế chia sẻ (sharing economy) và nền kinh tế dịch vụ (service economy). Nền tảng số cũng giúp doanh nghiệp tối ưu hóa chi phí bằng cách cung ứng sản phẩm, dịch vụ trực tiếp từ doanh nghiệp đến tay người dùng cuối mà không qua các khâu trung gian (direct to sale).
Dịch chuyển của lực lượng lao động: Với mục tiêu tỷ trọng kinh tế số đạt 20% GDP vào năm 2025 và đạt 30% GDP vào năm 2030 (Quyết định số 411/QĐ-TTg ngày 31/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030), đồng nghĩa với việc lao động cho lĩnh vực kinh tế số cũng dịch chuyển sang lĩnh vực này một cách mạnh mẽ. Theo khảo sát của Bộ Thông tin và Truyền thông, năm 2021, tổng số trường đại học có đào tạo công nghệ thông tin (CNTT), điện tử, viễn thông trên cả nước giai đoạn 2020-2021 là 242 cơ sở và tỷ lệ thực tế tuyển sinh đại học về CNTT, điện tử, viễn thông và an toàn thông tin chiếm 84%. Nhân lực CNTT năm 2020 đạt 1.030.000 lao động. Con số kỳ vọng đến cuối năm 2024 tổng số nhân lực công nghệ số Việt Nam đạt 1,5 triệu người.
Trong các văn kiện của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, những khái niệm như: Chuyển đổi số, kinh tế số, xã hội số lần đầu tiên được đề cập. Nội hàm của những khái niệm này cũng được nhấn mạnh nhiều lần trong mục tiêu, quan điểm phát triển và các đột phá chiến lược. Chủ trương đẩy mạnh chuyển đổi số, phát triển kinh tế số là một trong những quan điểm thể hiện ý chí, khát vọng phát triển đất nước. Đây chính là mục tiêu, ý nghĩa của việc đẩy mạnh chuyển đổi số, phát triển kinh tế số ở nước ta; là lý do để Đại hội XIII của Đảng đặc biệt nhấn mạnh chủ trương chuyển đổi số, phát triển kinh tế số trong các văn kiện Đại hội.
Bước sang thế kỷ XXI, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội. Có thể nói, sự phát triển vượt bậc của khoa học - công nghệ, với sự ra đời và ứng dụng rộng rãi của các công nghệ hiện đại như trí tuệ nhân tạo (AI), mã khối (Blockchain), Internet vạn vật (IoT), Dữ liệu lớn (Big Data) và điện toán đám mây (Cloud computing) là biểu hiện sự phát triển của LLSX. Khi LLSX đạt đến một trình độ mới, với những công cụ và phương thức sản xuất tiên tiến, thì QHSX - tức là các mối quan hệ giữa con người trong quá trình sản xuất - cần phải thay đổi để phù hợp để không kìm hãm sự phát triển của LLSX. Theo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX là động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội; khi LLSX phát triển đến một trình độ nhất định, QHSX phải được thay đổi để giải phóng năng lực sản xuất, đưa xã hội bước sang một giai đoạn phát triển mới.
Tuy nhiên, từ sự phát triển đó cũng mang trong mình vô số rủi ro tiềm tàng, sẵn sàng phá hủy mọi hệ thống thông tin, nền tảng số bất cứ lúc nào, đó là vấn đề rủi ro về bảo mật, ATTT.
Mật mã nói chung và mật mã quốc gia như một thành phần quan trọng trong hạ tầng kỹ thuật số, đóng vai trò không thể thiếu trong việc bảo bảo mật, ATTT, đảm bảo cho mọi hệ thống thông tin, nền tảng số hoạt động một cách thông suốt, an toàn, từ đó đảm bảo cho LLSX số phát triển an toàn. Các giải pháp mật mã hiện đại giúp bảo vệ thông tin, từ dữ liệu cá nhân đến dữ liệu quan trọng của quốc gia.
Với yêu cầu và trách nhiệm của cơ quan mật mã quốc gia, Ban Cơ yếu Chính phủ đã chủ động nghiên cứu, sản xuất và đưa vào ứng dụng nhiều sản phẩm bảo mật, ATTT để sẵn sàng đáp ứng mọi nhu cầu của các cấp ủy đảng, chính quyền. Có thể tin tưởng rằng, các giải pháp của ngành Cơ yếu Việt Nam sẽ là nền tảng vững chắc cho tiến trình xây dựng một nền kinh tế số an toàn và phát triển bền vững. Từ đó góp một phần quan trọng đưa đất nước vào kỷ nguyên mới như Tổng Bí thư từng nói: Việt Nam sẽ tiến vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.