Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng cuộc đời công tác của mình sẽ gắn với ngành Cơ yếu - một lĩnh vực đặc thù, thầm lặng mà đầy hiểm nguy, nơi những thông tin được bảo vệ chính là sinh mệnh của Đảng, của đất nước. Ấy vậy mà, một ngày của tháng 6/1996, tôi chính thức được phân công làm Trưởng ban Ban Cơ yếu Chính phủ trong một hoàn cảnh rất đặc biệt.
Khi ấy, tôi vừa kết thúc 11 năm công tác tại Sơn La - mảnh đất giàu truyền thống cách mạng, nơi tôi đã có cơ hội được đồng bào các dân tộc tín nhiệm, bầu làm Bí thư Tỉnh ủy hai nhiệm kỳ liên tiếp. Từ một cán bộ địa phương, được Trung ương tin tưởng giao trọng trách đứng đầu một đơn vị Trung ương với đặc thù hoạt động cực kỳ đặc biệt, là điều vừa vinh dự, vừa áp lực. Đã có những đồn đoán, nghi ngờ về sự điều động này. Nhưng như lời Tổng Bí thư Đỗ Mười đã nói khi trực tiếp giao nhiệm vụ: “Chú đã làm rất tốt nhiệm vụ ở Sơn La, nay chú về nơi Trung ương đang rất cần người có kinh nghiệm làm công tác xây dựng Đảng như chú, đó là Ban Cơ yếu Chính phủ”. Câu nói ấy với tôi là một lời gửi gắm thiêng liêng, không thể từ chối.
Theo đề nghị của Ban cán sự Đảng Chính phủ khi đó là Ban Bí thư sớm tăng cường cán bộ lãnh đạo cho Ban Cơ yếu Chính phủ (Trưởng ban): “Ngoài các tiêu chuẩn mà Trung ương đã quy định, với đặc điểm tình hình Ban Cơ yếu Chính phủ hiện nay, người cán bộ được bổ sung có thể trong Ngành hoặc ngoài Ngành nhưng phải là đồng chí có phẩm chất chính trị vững vàng, có khả năng đoàn kết quy tụ được cán bộ, công nhân viên trong cơ quan, phối hợp với nhau làm việc. Đây là một tiêu chuẩn hết sức quan trọng… Về mặt chuyên môn, cần có trình độ chuyên sâu nhưng trước mắt khó có thể chọn đồng chí có khả năng tổ chức thực hiện tốt nhiệm vụ, nghiêm túc chấp hành tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chỉ thị, nghị quyết của cấp trên”.
Tôi đến với Ngành hoàn toàn không có chuyên môn về kỹ thuật Cơ yếu, không một ngày được đào tạo bài bản. Tôi là một “người ngoại đạo” đúng nghĩa. Nhưng chính vì thế, tôi càng thấm thía trách nhiệm phải học, phải hiểu, phải gắn bó với từng con người, từng nhiệm vụ ở đây.
Ngày 12/9/1996, đúng dịp Kỷ niệm 51 năm Ngày truyền thống của ngành Cơ yếu Việt Nam, cũng là lần đầu tiên tôi chính thức ra mắt toàn thể cán bộ, nhân viên của Ngành. Sau buổi Lễ, tôi được dẫn đi thăm Bảo tàng của Ngành. Giữa những hiện vật đã bạc màu thời gian là những câu chuyện lặng lẽ mà hào hùng: về chiến sĩ Cơ yếu trên đường Trường Sơn; về những người làm mã dịch ở Hội nghị Geneve, Hội nghị Paris; những cán bộ, chiến sỹ Cơ yếu dưới làn bom đạn vẫn đảm bảo tuyệt đối an toàn, bí mật thông tin của Đảng, của Quân đội. Lặng người trước Bảng vàng ghi tên hơn 700 Liệt sĩ của Ngành. Trong đó, tôi đặc biệt xúc động trước cái tên Nguyễn Văn Giai, chiến sĩ Cơ yếu tình báo đã anh dũng hy sinh trong một nhiệm vụ đặc biệt ở Trảng Bàng, Tây Ninh.
Chuyến đi thăm Bảo tàng năm ấy đã đánh thức trong tôi một quyết tâm mạnh mẽ: Tôi không thể chỉ là người “được điều động đến”, mà phải trở thành một phần thật sự của tập thể này, một Ngành “kín đáo” nhưng đóng vai trò sống còn trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Tôi bắt đầu hành trình học nghề. Không ai “bắt” tôi phải học, nhưng tôi đã “buộc” mình phải học. Những buổi tối muộn, tôi lặng lẽ đọc từng trang tài liệu về lý thuyết mật mã, về quy tắc song hành, chuyển vị, bất định, vô hạn… Những khái niệm như “khóa a, s, z” đối với tôi là hoàn toàn xa lạ nhưng tôi buộc phải hiểu để nắm chắc chiến lược, để ra quyết sách đúng. Tôi đọc Chỉ thị số 85-CT/TW của Ban Bí thư, Quy chế 64, các từ điển mật mã, các quy định về quản lý nghiên cứu kỹ thuật… Ba năm đầu là ba năm học cật lực như một tân sinh viên bước vào giảng đường, chỉ khác là tôi học để phục vụ một nhiệm vụ tối quan trọng, phục hồi và xây dựng lại Ngành trong thời kỳ đổi mới.
Song song với việc tự học, tôi đi rất nhiều, đến từng cơ quan, từng đơn vị cơ yếu trong Ban, trong Quân đội, Công an, Biên phòng, trong các cơ quan Đảng, chính quyền... Tôi cần phải thấy tận mắt, nghe tận tai để hiểu tổ chức mình đang vận hành ra sao. Những chuyến đi ấy không chỉ giúp tôi nắm được thực trạng mà còn gắn kết được tình cảm, xây dựng lòng tin giữa người đứng đầu và đội ngũ cán bộ trong toàn Ngành.
Đó là một thời kỳ vô cùng gian khó, nhưng cũng đầy cảm hứng. Một “tân binh” như tôi, cần phải được anh chị em trong Ngành tin tưởng, sẻ chia, hỗ trợ tận tình đó là điều tôi luôn khắc ghi. Cuối cùng, về sau đã có một đồng chí lãnh đạo trong Ban nói với tôi: “Anh không phải là người biết viết mật mã, nhưng anh đang là người tạo ra mật mã lớn nhất - mật mã của niềm tin và đoàn kết”. Tôi không dám nhận lời khen ấy, nhưng thầm cảm ơn sự đồng lòng của tập thể đã giúp tôi vượt qua giai đoạn chuyển giao đầy thử thách.
Sau những ngày đầu học hỏi và tiếp cận thực tế, tôi cùng tập thể Lãnh đạo Ban bắt tay vào việc hoạch định lại toàn diện chiến lược phát triển của Ngành. Chúng tôi xác định rằng, muốn ngành Cơ yếu thực sự vững mạnh, cần bắt đầu từ gốc, đó là tổ chức, cán bộ và đường hướng chính trị - kỹ thuật - pháp lý.
Trong giai đoạn này, một trong những việc quan trọng mà tôi cùng anh em tập trung triển khai là điều chỉnh Chiến lược phát triển ngành Cơ yếu Việt Nam đến năm 2000, đồng thời xây dựng Định hướng chiến lược phát triển đến năm 2010. Đây không chỉ là bản kế hoạch trên giấy, mà thực chất là sự chuẩn bị cho ngành Cơ yếu bước vào giai đoạn hội nhập công nghệ, trước làn sóng tin học hóa và số hóa đang hình thành từ cuối những năm 1990.
Song song đó, tôi đặc biệt quan tâm đến công tác đào tạo cán bộ. Chúng tôi mở lớp cử nhân chính trị tại chức dành cho đội ngũ lãnh đạo các đơn vị, không chỉ để nâng cao trình độ, mà còn bồi dưỡng bản lĩnh chính trị cho đội ngũ đầu tàu của Ngành. Tổ chức Công đoàn Ban Cơ yếu Chính phủ cũng được thành lập, chăm lo tốt hơn đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, nhân viên - một điều tưởng nhỏ nhưng có ý nghĩa rất lớn với ngành nghề nhiều hy sinh mà lặng thầm. Cũng thời gian này, Đại hội Thi đua yêu nước toàn Ngành đã được tổ chức.
Từ thực tiễn đi cơ sở, tôi cũng nhìn ra nhiều tập thể, cá nhân trong Ngành có cống hiến to lớn nhưng chưa được ghi nhận đúng mức. Tôi chủ trương phối hợp với các cơ quan chức năng đề xuất phong tặng và truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho 12 tập thể và cá nhân tiêu biểu, trong đó có Liệt sĩ Nguyễn Văn Giai - người mà tôi từng xúc động khi đọc tên anh trên Bảng vàng tại Bảo tàng ngành Cơ yếu Việt Nam. Giai đoạn 1999-2001, những Lễ trao tặng danh hiệu thiêng liêng đó đã trở thành ngày hội thực sự của toàn ngành Cơ yếu - lần đầu tiên những người làm công việc thầm lặng được tôn vinh một cách chính thức và trang trọng.
Thành tựu đặc biệt có tính chất đột phá mà tôi cùng tập thể Ban Cơ yếu Chính phủ thực hiện chính là việc xây dựng Pháp lệnh Cơ yếu - văn bản pháp lý đầu tiên và nền tảng để quản lý ngành Cơ yếu Việt Nam. Chúng tôi thành lập Ban Chỉ đạo và Tổ Biên tập gồm các cán bộ chủ chốt của Ban và các Bộ: Quốc phòng, Công an, Ngoại giao, Tư pháp… Sau 35 tháng miệt mài, với 3 lần báo cáo Chính phủ, nhiều lần chỉnh sửa, cuối cùng, ngày 04/4/2001, Pháp lệnh Cơ yếu chính thức được Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa IX thông qua. Với tôi, đó là một khoảnh khắc thiêng liêng, minh chứng cho sự kiên trì, đồng lòng và quyết tâm của cả tập thể.
Song song với nội lực, tôi cùng Ban Cơ yếu Chính phủ chú trọng đẩy mạnh công tác Đối ngoại chuyên ngành, mở ra những mối quan hệ hợp tác quốc tế sâu sắc và hiệu quả. Một số quốc gia bạn bè truyền thống như Lào, Campuchia, Cuba và Liên bang Nga đã trở thành đối tác quan trọng trong lĩnh vực bảo mật thông tin. Đặc biệt, ngày 18/9/1999, tôi được thay mặt Chính phủ Việt Nam ký Hiệp định hợp tác giữa hai Chính phủ Việt Nam - Liên bang Nga về lĩnh vực bảo vệ thông tin. Đây là cột mốc đánh dấu bước trưởng thành của ngành Cơ yếu Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế.
Không chỉ về pháp lý hay đối ngoại, chúng tôi còn quyết tâm hiện đại hóa cơ sở vật chất, đầu tư cho nghiên cứu khoa học. Một loạt dự án thiết bị mật mã, hệ thống mã thoại, máy mã bảo vệ mạng điện tử diện rộng được khởi động và từng bước triển khai. Các sản phẩm nghiên cứu bắt đầu được đưa vào ứng dụng thực tế, phục vụ hệ thống Trung ương Đảng và Chính phủ.
Đặc biệt, tôi rất tâm đắc với quyết định xây dựng Khu tác nghiệp Đại Lải - nơi bảo đảm hoạt động nghiệp vụ trong điều kiện đặc biệt, xây dựng cơ sở an điều dưỡng ở Sầm Sơn. Đó là một bước chuẩn hóa hạ tầng gắn với chiến lược dài hạn mà đến nay, tôi tin rằng vẫn còn nguyên giá trị.
Năm 2003, tôi nghỉ hưu, kết thúc một chặng đường đầy thử thách nhưng cũng ngập tràn kỷ niệm. Đã hơn hai thập niên trôi qua, nhưng mỗi khi nhớ lại những ngày đầu bước chân vào ngành Cơ yếu, tôi vẫn còn nguyên cảm giác bỡ ngỡ, lo lắng và lòng biết ơn vô hạn với các đồng chí, đồng đội đã luôn sát cánh bên tôi.
Ngành Cơ yếu hôm nay đã bước vào kỷ nguyên số, gánh vác sứ mệnh mới trong bối cảnh chuyển đổi số quốc gia, chiến tranh mạng và những cuộc cạnh tranh về công nghệ mật mã toàn cầu ngày càng quyết liệt. Nhưng tôi tin, với truyền thống vẻ vang được rèn giũa qua các cuộc kháng chiến, cùng bản lĩnh chính trị vững vàng và tinh thần đoàn kết bền chặt, ngành Cơ yếu Việt Nam sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ, giữ vững vai trò là “lá chắn thầm lặng” bảo vệ an ninh quốc gia trong thời đại mới.
Tôi - một “người ngoại đạo” ngày nào, nay đã trở thành người yêu quý ngành Cơ yếu như một phần máu thịt. Với tôi, được gắn bó với Ngành chính là cơ duyên lớn, là dấu son đặc biệt trong cả hành trình công tác của đời mình./.
Mời Quý độc giả đón đọc Ấn phẩm Cơ yếu Việt Nam số 3.2025 tại đây: