|

Từ bài học về sự sụp đổ của Liên Xô đến tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

20:59 | 16/02/2025

CYVN - Trong thế kỷ trước, Liên Xô không chỉ là quốc gia rộng lớn nhất thế giới, mà còn là một siêu cường hùng mạnh nhất lịch sử loài người, là quê hương của Cách mạng Tháng 10 mở ra con đường đi lên nghĩa xã hội (CNXH), là thành trì của cách mạng, là “Anh cả đỏ” góp công lớn đánh bại chủ nghĩa phát xít, là chỗ dựa vững chắc cho các lực lượng đấu tranh giải phóng dân tộc, trong đó có Việt Nam. Liên Xô sụp đổ. Thật khó tin ngay cả với những người lạc quan nhất thời điểm bấy giờ, nhưng đó là sự thật lịch sử, một thảm họa địa chính trị lớn nhất thế kỷ XX.

Vì sao Liên Xô sụp đổ?

Cuộc cải tổ “Perestroika” do M. S. Gorbachev - khi đó là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô - đề xướng được coi là yếu tố trực tiếp dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô. Được chính thức khởi đầu từ năm 1985 với mục đích nâng cao sức mạnh cho quốc gia xã hội chủ nghĩa (XHCN) hùng mạnh bậc nhất thế giới, và khắc phục các điểm yếu còn tồn tại trong hệ thống Xô viết. Tuy nhiên, kết quả là sự hỗn loạn, mâu thuẫn không thể điều hòa được của đời sống xã hội Liên Xô.

Không chỉ dừng lại ở đó, tình hình càng trở nên nghiêm trọng hơn khi đến cuối những năm 80, “Perestroika” sau khi lan sang các nước Đông Âu đã làm nổ ra cuộc khủng hoảng có tính hệ thống. Đảng cầm quyền ở các nước này gần như ngay lập tức để mất chính quyền vào tay phe chống đối. Đến đầu năm 1990, khối các nước XHCN Đông Âu đã chính thức bị xóa tên khỏi bản đồ địa chính trị thế giới. Hơn một năm sau, Liên Xô cũng tan rã theo một kịch bản tương tự.

Sau sự tan rã của Liên Xô, đã có rất nhiều nghiên cứu, phân tích nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ định hình lại bản đồ thế giới. Về bản chất, có thể khẳng định rằng, sự sụp đổ có hệ thống của mô hình XHCN ở Liên Xô chính là việc từ bỏ nền tảng tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin diễn ra trong suốt một thời gian dài từ Đại hội XX (tháng 02/1956) đến xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô được quy định tại Điều 6 Hiến pháp Liên bang cộng hòa XHCN Xô viết trong cuộc cải tổ thảm họa.

Nói về quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô, bắt nguồn từ sự chệch hướng về đường lối và sự thay đổi nhân sự lãnh đạo trong “công tác cán bộ” của Đại hội XX. Khi đó, N. S. Khrushyov - Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô cùng đội ngũ lãnh đạo Đảng mà lịch sử gọi tên là “những đứa con của Đại hội XX” - những người có “đóng góp to lớn” vào sự sụp đổ của Liên Xô sau này đã thi hành những đường lối vô cùng phản động, vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc đến mức gần như đoạn tuyệt với chủ nghĩa Mác - Lênin: Ra sức đập bỏ những di sản của người tiền nhiệm I. V. Stalin và quy kết mọi tội lỗi là những hạn chế, khuyết điểm của Đảng Cộng sản Liên Xô trước đó cho nhà lãnh đạo quá cố với cái gọi là “Về nạn sùng bái cá nhân và những hậu quả của nó”; đồng thời đề ra một loạt những chủ trương “đảng toàn dân”, “nhà nước toàn dân” hay mục tiêu trong 20 năm Liên Xô sẽ xây dựng thành công CHXH… Trong thời gian Đảng Cộng sản Liên Xô được dẫn dắt bởi Khrushyov (1953-1964) thực sự là thời kỳ khủng hoảng trầm trọng về đường lối lãnh đạo, là thời kỳ ươm mầm “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” cho một đội ngũ cán bộ cốt cán sẽ phá tan siêu cường XHCN Liên Xô cuối năm 1991. Về sau, lịch sử đã định danh chính xác những gì diễn ra trong một thập kỷ này trên đất nước Liên Xô là những biểu hiện rõ nét nhất của chủ nghĩa “cơ hội xét lại” khi mà nền tảng tư tưởng, hoạt động, lịch sử của Đảng Cộng sản Liên Xô bị những kẻ cơ hội chính trị xét lại, xuyên tạc, bóp méo đến nỗi hệ quả của nó theo chân “những đứa con của Đại hội XX” còn đeo bám vào tư duy đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô đến tận những năm cuối của cuộc cải tổ “thần thánh” trước khi xóa sổ siêu cường này khỏi bản đồ địa chính trị thế giới.

Sau một thập kỷ xét lại và chống xét lại, từ cuối những năm 50 đến đầu những năm 60, Liên Xô đi vào thời kỳ phát triển có thể coi là cực thịnh trong suốt 74 năm hình thành, phát triển và diệt vong, đỉnh cao là những năm 70 của thế kỷ trước, Liên Xô trở thành siêu cường bậc nhất trên thế giới.

Tuy vậy, Đảng Cộng sản Liên Xô lại dần dần mắc phải những căn bệnh mà lẽ ra người cộng sản phải coi đó là kẻ thù chính, đó là “tính kiêu ngạo cộng sản chủ nghĩa”, “sự ngu dốt cản trở việc giáo dục chính trị”, “nạn hối lộ, tham nhũng” mà Lê-nin đã cảnh báo. Tiềm lực là vô cùng lớn, song Liên Xô không ngần ngại lao vào cuộc chạy đua vũ trang hao tiền tốn của với Mỹ và phương Tây, làm suy kiệt dần nội lực đất nước. Đây cũng là giai đoạn mà tinh thần đoàn kết giữa Đảng Cộng sản Liên Xô và các Đảng Cộng sản anh em xuống đến ngưỡng chạm đáy, nhất là quan hệ Xô - Trung. Năm 1979, quân đội Liên Xô tham chiến tại chiến trường Afghanistan để rồi sa lầy trong cát, sỏi sa mạc nơi đây đến tận 10 năm sau đó, hệ quả là kinh tế bị thiệt hại nặng nề, bất mãn xảy ra ngay trong chính nội bộ Đảng.

Cuối những năm 70, các biện pháp cải cách kinh tế không đem lại hiệu quả; việc “chỉnh đốn Đảng”, nhất là về nhân sự cán bộ gần như đứng yên. Trên thực tế, Đảng Cộng sản Liên Xô thời gian này chao đảo với nạn tham nhũng, cán bộ lãnh đạo suy thoái nặng nề về tư tưởng chính trị, phân chia bè phái, chạy chức chạy quyền, chế độ “cán bộ lãnh đạo suốt đời”, “những ông quan cách mạng”, “những đảng viên quý tộc” trở nên phổ biến, hình thành một đội ngũ nòng cốt đặc quyền trong Đảng. Đây chính là nguyên nhân khiến nhân dân mất niềm tin vào Đảng, là thời cơ không thể tốt hơn cho những kẻ cơ hội chui sâu, leo cao vào hàng ngũ lãnh đạo đất nước dẫn đến sự sụp đổ nhanh chóng của “thành trì cách mạng kiên cố” của những người cộng sản.

Một nguyên nhân sâu xa khác không thể không nhắc đến âm mưu vô cùng thâm độc của chủ nghĩa tư bản (CNTB) và các thế lực thù địch chống Cộng trên toàn thế giới, đó là “chiến tranh tâm lý” hay “cách mạng màu”, sau này được gọi với một cái tên mỹ miều hơn là “diễn biến hòa bình”. Về bản chất, “diễn biến hòa bình” là một quá trình diễn biến lâu dài, âm thầm, không đổ máu, tấn công vào tư tưởng của cả người dân lẫn các lãnh đạo cao cấp nhất của các Đảng Cộng sản ở các nước XHCN, tiến tới loại bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. “Diễn biến hòa bình” có thể được tiến hành bằng nhiều cách thức, nhiều biện pháp, đa dạng, phức tạp, đan xen, không đồng nhất, tấn công vào mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự, tư tưởng, văn hóa… Không quá khi nói rằng, CNXH ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ là kết quả của cuộc chiến không tiếng súng kéo dài mang tên “diễn biến hòa bình” mà Mỹ, phương Tây và các thế lực thù địch tiến hành nhằm lật đổ chủ nghĩa cộng sản ngay tại nơi sinh ra.

Vì sao Việt Nam vẫn đứng vững?

Trước “một bước lùi lịch sử” của phong trào cộng sản và công nhân toàn thế giới, Việt Nam đã làm gì để vững vàng bước qua giai đoạn khó khăn đó?

Trước hết phải khẳng định rằng, Đảng ta từ khi thành lập năm 1930 luôn kiên định đi theo con đường chủ nghĩa xã hội trên nền tảng tư tưởng học thuyết Mác - Lênin, nhất là những vấn đề có tính nguyên tắc. Chính sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam qua từng giai đoạn lịch sử là vấn đề then chốt, thể hiện tính sáng tạo, đường lối đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam xuyên suốt chiều dài lịch sử, phù hợp với yêu cầu thời đại. Điều đó khác biệt hoàn toàn về mặt bản chất với mô hình chủ nghĩa hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu, đặc biệt từ sau Thế chiến thứ 2, khi áp dụng chủ nghĩa Mác - Lênin một cách máy móc, rập khuôn, bảo thủ, chủ quan duy ý chí.

Ở Việt Nam những năm 1986 - 1991, công cuộc cải cách diễn ra gần như đồng thời với cuộc cải tổ “Perestroika” do Gorbachev khởi xướng tại Liên Xô, tuy nhiên, đã không giẫm vào vết xe đổ của “Anh cả đỏ” mà đi theo một hướng hoàn toàn khác. Nếu cải tổ ở Liên Xô là bước trượt dài về đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản, là sai lầm trong công tác cán bộ dẫn đến xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sau cùng là mất chế độ, thì cải cách ở Việt Nam được đánh giá là bước phát triển chiến lược về nhận thức, tư duy, đường lối lãnh đạo đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ mới trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đáp ứng yêu cầu thực tiễn, mở ra thời kỳ phát triển mới - thời kỳ Đổi mới - của Cách mạng Việt Nam, được đánh dấu bằng thành công về mọi mặt của Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986).

Đại hội VI của Đảng là Đại hội của những đổi mới có tính chất bước ngoặt đưa nước ta thoát khỏi cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp thời kỳ từ sau khi giành độc lập thống nhất đất nước (tháng 4/1975). Tại Đại hội, lần đầu tiên quan điểm “nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ” của Lê-nin được Đảng ta vận dụng. Đây chính là quan điểm mới về cải tạo XHCN được Đảng ta xác định trong kỳ Đại hội này. Một thành công lớn khác của Đại hội VI của Đảng chính là công tác cán bộ. Một nửa số Ủy viên Bộ Chính trị được bầu là những gương mặt mới, tiêu biểu như đồng chí Nguyễn Văn Linh, đồng chí Võ Văn Kiệt… đều là những người cộng sản kiên trung, đã được thử thách tôi rèn qua hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, sau này chính là những kiến trúc sư cộng sản tài năng trong công cuộc đổi mới của đất nước.

Giữa năm 1991, khi tình hình Liên Xô trở nên hỗn loạn, đang bên bờ vực sụp đổ hoàn toàn do những sai lầm chết người về đường lối khi xóa bỏ vai lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô đối với đất nước, tại Việt Nam tháng 6 năm đó, Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam một lần nữa chứng minh sự sáng suốt của mình khi khẳng định vị trí, vai trò không thể thay thế trên con đường đi lên CNXH của đất nước: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc”. Theo đó, “Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản”. Lần đầu tiên, khái niệm Tư tưởng Hồ Chí Minh được Đảng ta nêu lên trong kỳ Đại hội này. Đến năm 2011, khái niệm Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được Đảng ta bổ sung, phát triển và khái quát trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH.

Đến đây, có thể khẳng định rằng con đường Cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đúng hướng. Việt Nam đã đứng vững và bước qua khủng hoảng khi kiên định và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam; đập tan mọi hoài nghi, âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, cơ hội, xét lại lúc bấy giờ. Sự phát triển không ngừng của Việt Nam trên con đường đi lên CNXH qua các kỳ Đại hội sau đó, từ Đại hội VIII (năm 1996) đến Đại hội XIII (năm 2021) khẳng định tính đúng đắn và giá trị trường tồn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Đã hơn 30 năm trôi qua nhưng sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu vẫn luôn là bài học khắc cốt ghi tâm của các đảng viên và các Đảng Cộng sản trên khắp thế giới.

Trong suốt chiều dài lịch sử hơn 90 năm kể từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động và luôn xác định bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ tối quan trọng, liên quan đến sự tồn vong của Đảng, của chế độ.

Nhận diện chính xác những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chính là bảo vệ Đảng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Những luận điệu công kích, chống phá của kẻ thù rất đa dạng, song về cơ bản tập trung theo một số hướng sau đây:

- Cố tình xuyên tạc, hạ thấp vai trò của chủ nghĩa Mác - Lênin. Với luận điệu phản động cho rằng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin cách ngày nay đã quá lâu, không còn phù hợp để lý giải xã hội hiện đại; rằng chủ nghĩa Mác - Lênin xuất phát từ bối cảnh lịch sử của phương Tây không thể giải quyết vấn đề diễn ra ở phương Đông, trong đó có Việt Nam.

Rõ ràng, đây là luận điệu hết sức phản động. Lênin đã khẳng định: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”. Thật vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin có giá trị bền vững và tính thời đại, bởi bản thân nó là một học thuyết phát triển, có tính mở, hướng tới sự tiến bộ của xã hội. Chủ nghĩa Mác - Lênin và tiến bộ xã hội có mối quan hệ hữu cơ, biện chứng với nhau: Học thuyết ra đời, tồn tại và phát triển là nền tảng tư tưởng thúc đẩy quá trình phát triển và tiến bộ xã hội, ngược lại thực tiễn sự phát triển và tiến bộ xã hội chính là sự bổ sung, hoàn thiện chủ nghĩa Mác - Lênin trong tiến trình lịch sử nhân loại.

- Tấn công tư tưởng Hồ Chí Minh khi cho rằng đó chỉ đơn thuần là nhắc lại tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, rằng Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi chứ không hoàn thoàn theo chủ nghĩa cộng sản.

Đảng ta đã khái quát khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh tại Đại hội XI của Đảng năm 2011 là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện lịch sử Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp lý luận cách mạng khoa học chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam và tinh hoa của nhân loại. Chủ nghĩa Mác - Lênin ở Hồ Chí Minh không phải là những luận điểm cứng nhắc, giáo điều mà đã chuyển hóa thành hệ thống thế giới quan, phương pháp luận, nhân sinh quan cách mạng, khoa học, nhân văn.

Thành công của Cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam từ cách mạng dân tộc dân chủ trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc trong giai đoạn khủng hoảng những năm sau khi giành độc lập, đến những thành tựu rực rỡ thời kỳ đổi mới chính là câu trả lời đanh thép, phản bác luận điệu phản cách mạng này.

- Phủ nhận tính hợp pháp và tính chính đảng nhằm mục đích xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, và cuối cùng là lật đổ chế độ. Đây thực sự là âm mưu vô cùng hiểm độc của kẻ thù, đã từng xóa sổ Liên Xô khỏi bản đồ địa chính trị thế giới.

Không một giây phút nào các lực lượng chống Cộng, phản cách mạng từ bỏ mục đích lật đổ chế độ XHCN ở Việt Nam, nhất là sau sự tan ra của Liên Xô, rêu rao rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết vai trò lịch sử; con đường đi lên CNXH là sai lầm, sẽ thất bại giống như Liên Xô và một số nước Đông Âu... Tuy nhiên, đó chỉ là sự sụp đổ của một mô hình CNXH cụ thể đã phạm những sai lầm nghiêm trọng về đường lối lãnh đạo cách mạng, xa rời lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, càng về sau càng trở nên bảo thủ, kiêu ngạo cộng sản.

Chúng ta không bao giờ quên bài học Liên Xô và Đông Âu và cũng chưa bao giờ mất niềm tin vào lý tưởng cộng sản. Thật vậy, ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã xác định chủ nghĩa Mác - Lê-nin là cốt, là gốc, là nền tảng tư tưởng của Đảng. Đến Đại hội VII năm 1991 của Đảng khẳng định rõ: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Luận điểm này đã tiếp tục được khẳng định trong các văn kiện qua các kỳ Đại hội của Đảng. Trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII năm 2021 nêu rõ: “Kiên định và không ngừng vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong từng giai đoạn”. Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nguyên tắc bất di bất dịch của Đảng ta đưa đất nước trên con đường đi lên CNXH.

Những câu hỏi “Vì sao Liên Xô sụp đổ?”, “Vì sao Việt Nam vẫn đứng vững?” đã có lời giải đáp. Bài học về sự sụp đổ của Liên Xô là lời cảnh tỉnh cho những người cộng sản và các Đảng Cộng sản về sự nguy hiểm của việc xa rời lý tưởng cách mạng chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Thành công của cách mạng Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử đến những thành tựu rực rỡ của công cuộc đổi mới là minh chứng cho tính khoa học, tính đúng đắn, tính cách mạng của lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, là lời khẳng định con đường đi lên CNXH là xu thế tất yếu của xã hội loài người. Vì vậy, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là bảo vệ Đảng, bảo vệ sự tồn vong của chế độ và bảo vệ chính mỗi chúng ta.

Để lại bình luận